slider
Phát triển kinh tế số

Chủ tịch Hồ Chí Minh với phát triển nông nghiệp

01 Tháng 10 Năm 2025 / 6 lượt xem

ThS. Hồ Thị Quỳnh Thoa

Phòng Tuyên truyền, Giáo dục

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu rất sâu sắc về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc, tháng 11/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”1 cho độc lập, tự do. Người luôn coi trọng nông dân và coi phát triển nông nghiệp là một tất yếu khách quan, là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khác: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - một vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Tuổi thơ của Người đã tham gia lao động sản xuất cùng cha mẹ, sống giữa những người nông dân quanh năm vất vả, lam lũ. Lớn lên trong hành trình theo cha, tận mắt chứng kiến số phận đau khổ của phần lớn người dân lao động, Người càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Nông dân Việt Nam phải chịu hai tầng áp bức “vừa như những người vô sản, vừa như những người bị mất nước”. Chính vì vậy, Người đã sớm nhận thức được trách nhiệm phải giải phóng cho giai cấp nông dân và phát triển nền nông nghiệp đem lại đời sống ấm no cho nhân dân cũng như nhìn thấy vai trò to lớn của giai cấp nông dân và vấn đề nông nghiệp đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Năm 1908, Người đã tham gia cuộc biểu tình của nông dân 6 huyện Thừa Thiên - Huế đòi chính quyền thực dân, phong kiến giảm sưu, giảm thuế, do bị mất mùa liên tiếp trong ba năm. Trước cuộc khủng hoảng con đường giải phóng của dân tộc ở đầu thế kỷ XX, ngày 05/6/1911, dưới tên Văn Ba, Người đã rời quê hương xứ sở ra đi tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Người đã trải qua những năm tháng kiếm sống, thâm nhập thực tiễn cuộc sống của những người lao động nhiều nước trên thế giới, phân tích tình hình, tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.

Là người Việt Nam đầu tiên trở thành người cộng sản, đại biểu cho nông dân thuộc địa dự Hội nghị Quốc tế nông dân của Quốc tế Cộng sản năm 1923 tại Mátxcơva, Liên Xô, Người đã tích cực đóng góp ý kiến có giá trị cả về thực tiễn và lý luận cho Hội nghị. Và chính trong Đại hội này, Người đã được bầu vào Đoàn Chủ tịch, trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân, biên tập viên của tờ tạp chí Quốc tế Nông dân. Bài viết đầu tiên của Người đăng trên tạp chí Quốc tế Nông dân số 1 năm 1924 là bài: Tình cảnh nông dân An Nam, với bức tranh và hình ảnh người nông dân Việt Nam lúc đó: Thửa ruộng, cái cày, con trâu, nỗi vất vả của nhà nông bị áp bức bóc lột, một cổ mấy tròng, đã theo Bác suốt một đời hoạt động.

Năm 1927, khi viết cuốn Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã coi công nhân và nông dân là đội quân chủ lực, là nòng cốt của cách mạng. Trong Chánh cương vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được hội nghị thành lập Đảng thông qua (3/2/1930) đã đề ra những nhiệm vụ: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp”3. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào nông dân Việt Nam ngày càng trưởng thành và lớn mạnh. Ngày 14/10/1930, tổ chức Nông Hội đỏ được thành lập - tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam. Từ đây, người nông dân Việt Nam có một tổ chức, đường lối cách mạng khoa học và có sự đoàn kết, tập hợp để đấu tranh mà Người sáng lập, rèn luyện, lãnh đạo là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài, mùa Xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 21/8, bài thơ Dân cày của Người đăng trên báo Việt Nam độc lập, số 103, Bác giải thích vì sao nông dân phải sống kiếp lầm than khổ cực, không có ruộng cày, thuế nặng sưu cao và “Mai sau thực hiện chương trình: Việt Nam nông dã tất canh kỳ điền” (nghĩa là theo chương trình Việt Minh, nông dân ai cũng có ruộng cày)4.

Thực hiện đúng chủ trương trên, sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền về tay nhân dân, một trong những vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm là vận động nhân dân tăng gia sản xuất đẩy lùi nạn đói, ổn định đời sống nhân dân. Trong bài Gửi nông gia Việt Nam đăng trên tờ báo Tấc đất, số 1, ngày 07/12/1945, Người viết: “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn); nước ta thì “dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải trồng trọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”5.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, cả nước thi đua thực hiện “tấc đất, tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang” ra sức cải tạo đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt, nhất là hoa màu ngắn ngày. Kết quả sản lượng hoa màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ tháng 11/1945 đến tháng 5/1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra thóc là 506.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui.

Khi cả đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chi Minh luôn khẳng định sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc muốn thắng lợi thì phải dựa chắc vào nông dân, Đảng và Chính phủ phải chăm lo đến lợi ích, nguyện vọng, đời sống của nông dân, khơi đậy và phát huy cao độ tinh thần cách mạng, chủ nghĩa yêu nước và sức người, sức của của nông dân. Đầu năm 1953, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đến giai đoạn quyết liệt, đòi hỏi sức người sức của nhiều hơn, Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ kháng chiến thấy rằng cần thiết phải tiến hành cải cách ruộng đất để bồi dưỡng nông dân. Ngày 01/12/1953, kỳ họp thứ ba (khóa I), Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua Luật cải cách ruộng đất. Báo cáo trước Quốc hội trong kỳ họp này, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến mới có thể chấm dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh mẽ lực lượng to lớn của nông dân để phát triển sản xuất và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn”6. Ngày 19/12/1953, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ban bố Luật cải cách ruộng đất. Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, cải cách ruộng đất được mở rộng thực hiện trên toàn miền Bắc và kết thúc vào tháng 6/1957. Tuy trong tổ chức thực hiện có những sai lầm, nhưng nhờ cuộc cải cách ruộng đất, giấc mơ người cày có ruộng từ ngàn đời nay của nông dân đã được thực hiện triệt để. Có ruộng cày và làm chủ nông thôn, lại được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, nên hàng triệu nông dân miền Bắc phấn khởi đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó trong 3 năm 1955-1957, miền Bắc ngày càng dồi dào lương thực. Đến cuối năm 1957, sản lượng đã vượt năm 1939, là năm kinh tế Việt Nam đạt mức cao nhất dưới thời thuộc Pháp.

Thực tế sau cải cách ruộng đất đa số nông dân vẫn làm ăn riêng rẽ. Trong bối cảnh ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rằng hợp tác hóa nông nghiệp là một tất yếu lịch sử. Chính Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa khái niệm hợp tác xã vào Việt Nam. Người khẳng định trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946:  “Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”7. “Hợp tác xã là “góp gạo thổi cơm chung” cho khỏi hao của, tốn công, lại có nhiều phần vui vẻ”8. Về tính chất, “Hợp tác xã khác hội buôn, vì hội buôn lợi riêng, hợp tác xã lợi chung. Hợp tác xã tuy là để giúp đỡ nhau, nhưng không giống các hội từ thiện. Vì các hội ấy có tiêu đi mà không làm ra…, hợp tác xã có tiêu đi, có làm ra…”9.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bám sát tình hình thực tế, từng bước củng cố, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bằng những phân tích và căn dặn, chỉ đạo kịp thời. Người chú trọng đến việc xây dựng, phát triển cơ sở vật chất và kĩ thuật của hợp tác xã, thường xuyên nhắc nhở mở mang thủy lợi như một “biện pháp hàng đầu”, không ngừng cải tiến kĩ thuật và áp dụng kĩ thuật mới, cải tiến công cụ lao động, từng bước thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp… Ngày 16/10/1959, khi dự Hội nghị sản xuất Đông - Xuân tỉnh Ninh Bình, Bác đã tóm tắt 8 khâu liên hoàn trong kỹ thuật canh tác lúa bằng mấy câu văn vần: “Nước phải đủ, phân phải nhiều/ Cày sâu, giống tốt, cấy đều dảnh hơn.

Trừ sâu, diệt chuột chớ quên/ Cải tiến nông cụ, là nền nhà nông. Ruộng nương quản lý ra công/ Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ”10. Bác viết bài “Cần phải đẩy mạnh phong trào cải tiến nông cụ” trên báo Nhân dân, số 2270 (ra ngày 06/6/1960), ở đó Bác nói rõ thực trạng hiện nay số đông nông dân ta vẫn dùng những nông cụ lạc hậu như tổ tiên ta đời xửa đời xưa. “Vì vậy, làm lụng rất khó nhọc mà năng suất thì rất kém cỏi. Muốn tăng gia sản xuất thì chúng ta nhất định phải quyết tâm cải tiến nông cụ”11.

Song song với việc cải tiến nông cụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý tới việc nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho cán bộ ngành nông nghiệp để đáp ứng yêu cầu mới. Theo chủ trương của Người, rất nhiều cán bộ ngành nông nghiệp được lựa chọn và gửi đi đào tạo ở các nước bạn. Ông Nguyễn Văn Bít - Chủ nhiệm hợp tác xã Đại Xuân, Hải Dương kể lại: Năm 1966 ông là 1 trong 8 cán bộ ở Hải Dương được Bác Hồ cử sang Trung Quốc học về sản xuất lúa. Sau 8 tháng thực hiện “3 cùng”, tức cùng ăn cùng ở cùng làm với dân bản địa, kết thúc khoá học cán bộ nước bạn tặng đoàn 10 tấn giống lúa Trân châu lùn. Cũng từ đó các giống lúa Mộc tuyền, Trân châu lùn bén rễ “chung thuỷ” trên đồng đất Ninh Giang. Năm 1967 lần đầu tiên hợp tác xã Đại Xuân thâm canh giống Mộc tuyền đạt 6,7 tấn/ha, năng suất cao nhất tỉnh12.

Sau khi cái ăn cái mặc của người dân bước đầu đã được đảm bảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh liền phát động trồng cây để giải quyết nhiệm vụ là cho dân có gỗ làm nhà, ổn định cuộc sống. Ngày 30/5/1959, với bút danh Trần Lực, Bác đã viết bài: “Nông dân phải trồng cây chuẩn bị làm nhà ở”, căn dặn: “Ngay từ bây giờ, đồng bào nông dân phải bắt tay vào việc chuẩn bị vật liệu làm nhà: Mỗi người (trong mỗi gia đình, tính cả già, trẻ, gái, trai) phải trồng ít nhất là 5 cây (cây xoan và các thứ cây khác có thể làm kèo, làm cột). Và mỗi gia đình phải trồng một bụi tre”13. Người không chỉ kêu gọi toàn dân tham gia phong trào trồng cây qua các bài nói, viết, mà còn bằng những hành động, việc làm cụ thể, mang lại lợi ích thiết thực, hiệu quả rõ ràng: Khi trồng rau phục vụ nhà ăn, Bác đã chọn cây cải canh thu hoạch nhiều lần, chứ không phải cây cải củ chỉ thu một lượt. Khi đi công tác nước ngoài được biết có loại cây lá xanh quanh năm không rụng lá, Bác nghĩ tới ngườị lao công đêm đêm vất vả quét lá nên đã tìm cách đưa loại cây ấy về nước trồng ở bên cạnh nhà mình với ý định cho ngành Lâm nghiệp nhân ra trồng ở các đô thị để bớt đi nỗi nặng nhọc cho người công nhân quét đường; Cảm động nhất là Bác đã đưa về những cây cọ dầu Hải Nam trồng ở khu vườn Phủ Chủ tịch với ý định cho ngành Nông nghiệp nhân rộng ra lấy quả ép dầu tăng thêm chất béo cho bữa ăn của mọi người, mọi nhà. Ngay cả khi nằm trên giường bệnh, Bác vẫn không quên nhắc nhở Đảng bộ Nghệ An cần “có kế hoạch trồng cây bảo vệ rừng”.

Ngày 15/5/1965, nhân dịp mừng 75 tuổi, Bác Hồ đã viết bản thảo Di chúc đầu tiên, trong đó có đoạn: “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi… Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn… Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi, ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm, lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”14.

Trước ngày “đi xa” không lâu, ngày 05/01/1969, khi vẫn còn mệt sau khi đi thăm bà con và trồng cây ở xã Vật Lại (Ba Vì, Hà Nội) về, Bác vẫn tranh thủ đọc dự thảo Điều lệ Hợp tác xã nông nghiệp. Sau khi đọc xong, Bác nói: “Điều lệ này của hợp tác xã rất quan trọng. Nó nhằm bảo đảm thật sự quyền làm chủ của các xã viên. Phải thực hiện tốt Điều lệ để hợp tác xã càng thêm vững mạnh, nông thôn ngày càng đoàn kết, sản xuất càng phát triển và nông dân ta ngày càng thêm ấm no, tiến bộ”15. Người đã ghi và sửa một số từ trong Điều lệ và tự mình viết lời giới thiệu. Ngày 24/8/1969, sức khỏe của Bác có diễn biến phức tạp, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, các bác sĩ, lo lắng, tập trung chăm lo sức khỏe cho Người.

Tuy nhiên, khi nghe Đài tiếng nói Việt Nam phát bài diễn ca về Điều lệ Hợp tác xã nông nghiệp, Người đã khen ngợi và căn dặn Ban Tuyên huấn phổ biến rộng rãi hình thức diễn ca này để bà con nông dân dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm, thực hiện tốt Điều lệ.

Trong Di chúc, Người đã dành những dòng xiết bao trìu mến, ân cần, thiết thực đối với giai cấp nông dân: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỷ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”16.

Thực hiện Di chúc của Bác, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chủ trương phù hợp với nguyện vọng của nông dân, như miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp và các loại thuế, phí, nghĩa vụ đóng góp đối với nông dân. Trong quá trình khôi phục kinh tế sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước từng bước tiến hành vận động nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp, tăng gia sản xuất phát triển kinh tế. Từ năm 1986 đến nay, đội ngũ nông dân Việt Nam đã cùng nhân dân cả nước tập trung thực hiện Đường lối “Đổi mới”, “Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa”, “Hội nhập quốc tế” và thu được nhiều thành tựu to lớn, nổi bật. 

Trong sự trưởng thành, lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam ngày hôm nay, không thể không nhắc đến vai trò của tổ chức Hội Nông dân. 95 năm qua, từ Nông Hội đỏ, Hội tương tế ái Hữu, Hội Nông dân Phản đế, Hội Nông dân Cứu quốc đến Hội Nông dân Giải phóng ở Miền Nam, Hội Liên hiệp Nông dân tập thể ở Miền Bắc và từ ngày 01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định đổi tên Hội Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam. Dù ở bất kỳ giai đoạn nào, với tên gọi khác nhau song tổ chức chính trị của giai cấp nông dân luôn thể hiện rõ vai trò và vị trí của mình trong việc tập hợp, động viên giai cấp nông dân tham gia tích cực vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đến nay Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức thành công 8 kỳ Đại hội toàn quốc, có trên gần 16 triệu hội viên. Tổ chức Hội đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới.

Trong những năm gần đây, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nông nghiệp Việt Nam một lần nữa trở thành trụ cột của nền kinh tế đất nước, đóng góp kịp thời và hiệu quả vào nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Những chỉ đạo sâu sắc, sát sao của Đảng trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông nghiệp đã mang lại nhiều thành tựu tích cực. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, hàng năm phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, thực phẩm, đến nay Việt Nam không những đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho toàn thể nhân dân mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới.

Ghi chú:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tâp, Nxb CTQG, H.2011, t. 6, tr. 248

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr.246

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 2

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 238.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 134.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 179-180.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 246.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 343.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 344.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, , t. 12, tr.308.

11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 581.

12. https://nongnghiepmoitruong.vn/nguoi-duoc-bac-ho-cu-sang-trung-quoc-hoc-trong-lua-d26489.html

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 226.

14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 613

15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 566.

16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 504.

 

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)