Vận dụng phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám đối với giai đoạn hiện nay
ThS. Trần Thị Thắm
Phòng Tuyên truyền, Giáo dục
Lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam là bản trường ca bất khuất, nơi những tên tuổi vĩ đại đã góp phần viết nên những trang sử vàng. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là một nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao lỗi lạc, người đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Ngay từ đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn khốc liệt, Hồ Chí Minh, với nhãn quan chính trị sắc bén, đã nhận ra những chuyển biến có thể trở thành cơ hội lớn cho dân tộc. Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), Người xác định rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, ưu tiên hơn cả cách mạng giai cấp. Từ nhận định “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1, Người khẳng định mục tiêu tối thượng là độc lập dân tộc. Người đã sớm dự đoán sự sụp đổ của phát xít và chiến thắng của phe Đồng minh, từ đó chủ động chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển Việt Minh, phát động cao trào cứu quốc trên cả nước để sẵn sàng chớp thời cơ khởi nghĩa khi điều kiện chín muồi.
Một trong những điểm đặc sắc nhất trong tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh là nghệ thuật ngoại giao, nơi tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” được thể hiện sâu sắc. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, Nhật Bản làm cuộc đảo chính Pháp (9/3/1945), tạo nên một khoảng trống quyền lực tại Đông Dương, Hồ Chí Minh nhanh chóng chỉ đạo phát động cao trào “kháng Nhật cứu nước” và mở rộng ngoại giao với phe Đồng minh, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Một minh chứng sinh động là việc cứu phi công Mỹ William Shaw bị Nhật bắn rơi tại Cao Bằng. Hồ Chí Minh không chỉ cứu sống mà còn đích thân đưa viên phi công Mỹ vượt rừng sang Côn Minh (Trung Quốc), gặp Tướng Claire Chennault – Tư lệnh Không đoàn 14, có biệt danh là đơn vị “Hổ Bay” của Mỹ, đại diện cho lực lượng Đồng Minh tại vùng Hoa Nam (Trung Quốc). Việc gặp mặt này không được báo trước, không có sự thỏa thuận từ trước, nhưng lại mở đầu cho một trong những hợp tác đặc biệt giữa Việt Minh và OSS (tiền thân của CIA). Kết quả là đơn vị “Con Nai” gồm các quân nhân, tình báo và báo vụ viên Mỹ được nhảy dù xuống Tân Trào để hỗ trợ Việt Minh huấn luyện, trang bị và phối hợp quân sự. Trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945, có ít nhất 22 chuyến hàng do Mỹ thả dù gồm vũ khí, điện đài, quân trang đã về tay lực lượng Việt Minh. Đỉnh cao là khi đơn vị hỗn hợp Việt – Mỹ hành quân về giải phóng Thái Nguyên và chứng kiến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945.
Việc Hồ Chí Minh trích dẫn câu từ của bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp (1789) vào trong bản Tuyên ngôn độc lập Việt Nam cũng là một minh chứng sinh động cho nghệ thuật ngoại giao của Người. Sự uyển chuyển, tài trí ngoại giao Hồ Chí Minh còn thể hiện ở Người tham khảo và nhờ Thiếu tá OSS – Patti Martin góp ý trước khi công bố văn kiện lịch sử này. Đây vừa là sự tôn trọng các giá trị dân chủ phổ quát, vừa là “đòn bẩy mềm” nhằm tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế trong việc thừa nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn cách mạng hiện nay, khi Việt Nam bước vào chặng đường mới với khát vọng phát triển và hội nhập, việc vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là yêu cầu của thời đại mà còn là chìa khóa để giữ vững chủ quyền, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng.
Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp và khó lường, với sự chuyển dịch trật tự quốc tế, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc gia tăng, xu thế bảo hộ, xung đột khu vực và phi truyền thống lan rộng, tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ mang tính lịch sử mà còn là kim chỉ nam vô giá cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc và kiến tạo tương lai của Việt Nam. Những nguyên tắc như “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa để tiến”, “thêm bạn, bớt thù” hay “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” tiếp tục là trụ cột trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Trước hết, trong sự nghiệp bảo vệ và giữ vững chủ quyền quốc gia, đặc biệt là trong vấn đề Biển Đông – một điểm nóng chiến lược mang tính toàn cầu – Việt Nam đã thể hiện rõ sự kế thừa phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh: kiên quyết nhưng mềm dẻo, đấu tranh bằng luật pháp quốc tế, không ngừng tranh thủ sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế, đồng thời giữ thế cân bằng quan hệ với các bên liên quan. Những nỗ lực tham gia và thúc đẩy các diễn đàn khu vực như ASEAN, APEC, EAS, và việc đề cao Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) đều phản ánh sự chủ động trong ngoại giao đa phương và pháp lý – đúng với tinh thần “vừa cứng rắn, vừa khôn khéo” mà Hồ Chí Minh từng thực hiện khi tìm kiếm sự thừa nhận quốc tế cho nền độc lập của Việt Nam.
Thứ hai, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tư duy “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” tiếp tục là nền tảng định hướng cho các hoạt động ngoại giao Việt Nam.
Việt Nam hiện đã tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP và đang đàm phán nhiều thỏa thuận hợp tác mới. Tuy nhiên, khác với trước đây, ngoại giao kinh tế ngày nay không chỉ nhằm thu hút vốn đầu tư hay mở rộng thị trường, mà còn phải góp phần nâng cao nội lực, chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng bền vững, xanh, và đổi mới sáng tạo. Đây cũng chính là sự vận dụng sinh động tư tưởng Hồ Chí Minh về việc tranh thủ ngoại lực không chỉ để “chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm” mà còn để “tự lực, tự cường”, làm cho dân tộc “ngẩng cao đầu sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Một ví dụ tiêu biểu là chiến lược ngoại giao vaccine trong giai đoạn 2021– 2022 khi đại dịch COVID-19 lan rộng toàn cầu. Trong thời điểm khan hiếm nguồn cung và cạnh tranh toàn cầu gay gắt, Việt Nam đã chủ động tiếp xúc, đàm phán, tranh thủ sự hỗ trợ từ hơn 40 quốc gia và tổ chức quốc tế, từ đó tiếp nhận hàng trăm triệu liều vaccine.
Những thành quả đó không chỉ là nỗ lực của riêng ngành y tế, mà còn là sự thành công Đảng, Nhà nước, nhân dân ta trong sự tiếp nối tư duy ngoại giao Hồ Chí Minh – nhân văn, linh hoạt, chủ động, không đối đầu nhưng luôn biết bảo vệ lợi ích dân tộc. Điều này cũng cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng hình ảnh quốc gia có trách nhiệm, biết chia sẻ và hợp tác trong các vấn đề toàn cầu – điều Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh khi nói rằng “nước Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước dân chủ”.
Không dừng lại ở lĩnh vực chính trị – an ninh – kinh tế, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh còn được vận dụng sâu sắc trong ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân và ngoại giao số. Với chủ trương “mềm hóa” hình ảnh quốc gia, Việt Nam đã đẩy mạnh quảng bá văn hóa, con người, tri thức Việt ra thế giới qua các hoạt động nghệ thuật, thể thao, sáng tạo, và gần đây là công nghệ.
Việc tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn, như SEA Games, Đại hội thể thao học sinh châu Á, lễ hội giao lưu văn hóa tại các đại sứ quán, hay việc các nghệ sĩ, nhà thiết kế, học giả Việt Nam góp mặt trong các diễn đàn toàn cầu, đều góp phần nâng cao vị thế và ảnh hưởng mềm của đất nước – điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng từ những năm đầu của thế kỷ XX khi Người hoạt động báo chí, ngoại giao và cách mạng tại Pháp và nhiều nước châu Âu.
Cuối cùng, một trong những biểu hiện mạnh mẽ nhất của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là việc Việt Nam giữ vững nguyên tắc “độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển”, nhưng vẫn chủ động tham gia xử lý các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, chuyển đổi số, và hòa bình bền vững.
Việt Nam ngày nay không chỉ đi tìm sự công nhận về mặt chủ quyền như thời kỳ 1945, mà còn tích cực đóng góp vào các sáng kiến toàn cầu với tư cách là một quốc gia có trách nhiệm. Đó là một bước trưởng thành toàn diện trong tư duy đối ngoại, tiếp nối tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh: không đóng cửa, không lệ thuộc, mà luôn mở rộng vòng tay hợp tác vì hòa bình và tiến bộ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là kết quả của sự đồng lòng dân tộc, mà còn là thành quả của tầm nhìn chiến lược, nghệ thuật ngoại giao linh hoạt, tinh tế và nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng ngoại giao của Người – từ lý luận đến thực tiễn – đã trở thành di sản vô giá, mang ý nghĩa vượt thời đại. Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức đan xen trong tiến trình toàn cầu hóa và cạnh tranh địa chính trị, việc vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là chìa khóa giữ vững độc lập, chủ quyền, đồng thời mở đường cho một tương lai phát triển hùng cường, hòa bình và bền vững.
Ghi chú:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113