slider
Phát triển kinh tế số

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một cuộc đời cách mạng nhiệt huyết

01 Tháng 10 Năm 2025 / 6 lượt xem

Nguyễn Vân Anh

Phòng Sưu tầm, Kiểm kê, Tư liệu

 

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tên khai sinh là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 01/01/1914 tại làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - vùng đất kiên cường, giàu truyền thống văn hóa, tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng. Tận mắt chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân, Nguyễn Vịnh sớm nhận thức được lý tưởng, trách nhiệm của mình đối với nhân dân, thể hiện bản lĩnh gan góc, kiên quyết và khả năng tập hợp mọi người đoàn kết chống lại bóc lột của người giàu đối với người nghèo.

Năm 1934, khi mới vừa 20 tuổi, Nguyễn Vịnh tham gia cách mạng, hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương do Đảng phát động và lãnh đạo. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Thừa Thiên chống ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến Nam triều nổ ra mạnh mẽ. Đồng chí đã dẫn dắt và khơi dậy ý chí cách mạng quật cường của đồng bào, tạo nên sự lớn mạnh của phong trào cách mạng trên quê hương Thừa Thiên- Huế.

Tháng 7/1937, Nguyễn Vịnh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó được cử làm Bí thư Chi bộ Niêm Phò, tổ chức đảng đầu tiên của huyện Quảng Ðiền và được giới thiệu tham gia Tỉnh ủy lâm thời. Năm 1938, đồng chí được Ðảng tin cậy giao trọng trách Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên và có vai trò quan trọng làm cho phong trào đấu tranh chống ách áp bức, bóc lột của nhân dân Thừa Thiên phát triển mạnh mẽ.

Bởi những hoạt động cách mạng tích cực của mình, Nguyễn Vịnh nhiều lần bị kẻ thù bắt giam ở nhiều nhà lao khác nhau. Những năm tháng chịu cảnh tù đày khắc nghiệt, đồng chí vẫn luôn giữ vững ý chí kiên cường của người cộng sản, góp phần xây dựng cơ sở đảng, đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Thừa Thiên Huế trong suốt thời kỳ hoạt động bí mật trước cách mạng.

Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, hệ thống cơ sở cách mạng, các đoàn thể Việt Minh, lực lượng tự vệ được xây dựng và phát triển mạnh mẽ ở Thừa Thiên- Huế, là sự chuẩn bị hết sức quan trọng cho cuộc Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Tháng 8/1945, Nguyễn Vịnh được cử là đại biểu cho tổ chức Đảng ở Trung Kỳ đi dự Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Cũng chính tại sự kiện này, lần đầu tiên Nguyễn Vịnh được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để giữ bí mật, Đảng và Bác Hồ đặt cho ông tên gọi mới: Nguyễn Chí Thanh.

Từ đó Nguyễn Chí Thanh trở thành cái tên chính thức trong Quân đội, trở thành một phần của lịch sử cách mạng Việt Nam. Hội nghị kết thúc Nguyễn Chí Thanh nhanh chóng trở về truyền đạt và triển khai Nghị quyết của Trung ương.

Đầu năm 1947, mặt trận Huế bị vỡ, tình hình vô cùng khó khăn. Ngày 25/3/1947, trên cương vị là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, kiêm Bí thư Phân khu ủy Bình - Trị - Thiên, Nguyễn Chí Thanh cùng tập thể Xứ uỷ đã phải đối phó với những tình huống cực kỳ gay go, ác liệt: Địch dùng vũ khí tấn công làm vỡ các tổ chức của ta, tách dân với chính quyền cách mạng, cô lập các cơ sở Đảng, cắt liên lạc giữa dân với Đảng, buộc các cơ quan của Đảng phải rút lên núi... Song với sự can trường, quyết đoán, sáng tạo, bình tĩnh, lạc quan, đồng chí đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp đặc biệt ngay sát địch, tại làng Nam Dương (huyện Phong Điền). Sau khi đọc thư của Bác Hồ “Gửi các đồng chí Trung Bộ”, nêu lên những khuyết điểm của cán bộ đảng viên trong những ngày đầu  kháng chiến, đồng chí đã liên hệ với tình hình địa phương, nghiêm khắc tự phê bình và phê bình, rút ra những bài học sâu sắc. Trên cơ sở phân tích những lời phê bình của Bác, cũng như vận dụng sáng tạo tư tưởng chiến tranh nhân dân của Người, đồng chí khẳng định: “Mất đất chưa phải là mất nước. Chúng ta chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có lòng tin của dân là có tất cả. Vì vậy chúng ta không được chạy dài. Chúng ta phải trở về với dân”.

Từ đó, phong trào kháng chiến ở vùng sau lưng địch của Bình - Trị - Thiên đã vượt qua được những khó khăn, từng bước khôi phục lại cơ sở, tiến lên giành những thắng lợi. Đầu năm 1948, các lực lượng cách mạng buộc phải rút khỏi nội thành. Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị mở rộng đề ra những quyết sách mới để đối phó với tình hình và đẩy mạnh phong trào cách mạng lên một bước mới. Ngày 25/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 120/SL về việc hợp nhất các khu thành các liên khu Bình – Trị - Thiên. Cuối năm 1948, tại Đại nội đảng bộ Liên khu 4, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được Đảng giao trọng trách cương vị Bí thư Liên khu ủy. Nhận nhiệm vụ mới, đồng chí cùng các đồng chí trong Phân khu ủy đi sâu nghiên cứu tình hình và ra nghị quyết mở một chiến dịch trong cả ba tỉnh của phân khu khiến hệ thống ngụy quyền địch ở cơ sở bị ta đập vỡ từng mảng lớn, gây ra sự hoang mang, lo sợ cho kẻ thù.

Chính những năm tháng hoạt động thực tiễn ở dải đất miền Trung khói lửa trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã giúp đồng chí Nguyễn Chí Thanh trở thành một cán bộ lãnh đạo giỏi cả về chính trị và quân sự. Điều này cũng góp phần tạo nên bước  ngoặt lớn trong sự nghiệp của đồng chí. Đầu năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp bước sang một giai đoạn mới, quân đội ta phát triển nhanh chóng và ngày càng lớn mạnh, đồng chí được điều động ra hoạt động tại Trung ương ở Việt Bắc.

Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng và đánh giá cao, ngày 11/7/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 122/SL bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Chí Thanh giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và là Phó Bí thư Tổng Quân ủy. Quyết định cử một lãnh đạo phân khu có nhiều thành tích chiến đấu, song chưa được đào tạo một cách bài bản về lý luận chính trị - quân sự đảm đương  vấn đề chính trị của toàn quân đang trong thời kỳ ác liệt, là một quyết định táo bạo song cũng vô cùng đúng đắn, thể hiện sự nhìn nhận tài tình và nghệ thuật sử dụng người tài của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 1951, tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị với số phiếu tín nhiệm cao. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Chí Thanh càng nỗ lực cố gắng, đem hết tâm lực cùng các đồng chí trong Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy triển khai nghiêm túc các tư tưởng chỉ đạo của Đảng, của Bác nhằm tăng cường sức chiến đấu của quân đội. Trên cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có công rất lớn trong việc củng cố sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bồi dưỡng và phát huy bản chất cách mạng của quân đội ta, xây dựng nền nếp công tác chính trị, thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng ngày một phát triển. Những đóng góp của đồng chí Nguyễn Chí Thanh có vai trò to lớn tạo nên sức mạnh tinh thần để quân đội ta để liên tiếp đánh thắng địch trong nhiều chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ, kết thúc bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử tháng 5/1954.

Hòa bình lập lại trên miền Bắc, do yêu cầu của công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ làm trưởng ban nông nghiệp Trung ương – mặt trận kinh tế hàng đầu thời điểm bấy giờ. Từ một vị tướng làm công tác tư tưởng, chính trị trong quân đội chuyển sang lãnh đạo mặt trận trọng yếu của đất nước, gắn chặt với đời sống nhân dân, đồng chí đã sâu sát cơ sở, nắm bắt tình hình, lắng nghe, tham khảo ý kiến các nhà khoa học, xác định phương hướng mở rộng sản xuất, phát động các phong trào thi đua trong nông nghiệp. Từ đó, nhiều phong trào được phát động và triển khai mạnh mẽ tạo nên luồng gió mới trên mặt trận nông nghiệp.

Ngày 31/8/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 36-SL, phong quân hàm cấp tướng cho 16 sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được đặc cách phong vượt cấp với hàm Đại tướng, vị đại tướng thứ hai của Quân đội nhân dân Việt Nam. Điều đó thể hiện sự tin cậy của Đảng, của Bác Hồ cũng như tài năng và những đóng góp của đồng chí Nguyễn Chí Thanh với lực lượng vũ trang nhân dân.

Giữa năm 1964, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam bước vào thời điểm bước ngoặt của cuộc chiến tranh. Mỹ quyết định thay đổi chiến lược chiến tranh ở miền Nam Việt Nam bằng việc tăng cường quân đội và hỏa lực, buộc chúng ta phải chấp nhận đối đầu trực tiếp bằng thực lực quân sự và quyết định thắng bại trên chiến trường. Để hóa giải chiến lược và chiến thuật của địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, cần có một người lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học, sắc sảo và nhạy bén, bám sát và nắm chắc tình hình biến đổi trên chiến trường, sẽ trực tiếp tham gia lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, Người còn lưu ý: Thời gian qua chưa tăng cường Uỷ viên Bộ Chính trị cho Miền Nam, nay tình hình cấp bách không đi không được. Tại Hội nghị, tập thể Bộ Chính trị nhất trí cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị cùng một số tướng lĩnh quân đội có kinh nghiệm chỉ huy vào tăng cường cho chiến trường.

Người được lựa chọn là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đảm nhận Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính uỷ Quân Giải phóng miền Nam. Điều này thể hiện quyết tâm và niềm tin của Bác Hồ, của tập thể Bộ Chính trị đối với Đại tướng. Trong buổi chia tay với đoàn cán bộ trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Đánh Pháp đã khó, đánh Mỹ càng khó hơn. Đảng và Chính phủ giao cho các chú vào trong đó cùng với đồng bào Miền Nam đánh Mỹ cho kỳ được thắng lợi. Gặp đồng bào thì nói: Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến đồng bào Miền Nam Tháng 01/1965, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh chủ trì Hội nghị Trung ương Cục miền Nam và đưa ra những quyết sách để thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Nam trong tình hình mới. Đặc biệt, nhân dân miền Nam khẳng định và nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên khắp các chiến trường, những lời căn dặn, chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Bộ Chính trị đã được quán triệt sâu sắc từ cơ quan Trung ương Cục đến các cơ sở và đã được cụ thể bằng những kế hoạch hành động.

Trên cương vị người lãnh đạo, chỉ đạo cao nhất tại chiến trường, Nguyễn Chí Thanh đi sâu nghiên cứu, phát hiện sớm việc chuyển hướng chiến lược của Mỹ để Đảng có điều chỉnh chiến lược phù hợp; luôn theo dõi, nắm bắt chuyển biến mới của tình hình chiến trường, đề xuất nhiều chủ trương chiến lược, sách lược đúng đắn, nhất là việc tổ chức các đơn vị chủ lực cơ động cấp trung, sư đoàn đứng chân trên các chiến trường miền Nam với phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân; cách đánh thích hợp, độc đáo: “Nắm thắt lưng địch mà đánh”;  “tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt”; “vành đai diệt Mỹ”, làm nên chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài, Núi Thành, Vạn Tường... khẳng định quân và dân Việt Nam không chỉ dám đánh, biết đánh mà còn đánh thắng Mỹ trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Những cống hiến to lớn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh không những góp phần làm cho tư tưởng, đường lối chính trị, quân sự của Đảng ta được quán triệt sâu sắc và ngày càng giành được những thắng lợi vẻ vang mà còn góp phần phát triển, làm giàu thêm kho tàng lý luận quân sự của Đảng.

Sau thời gian chiến đấu thực tế ở chiến trường và tìm ra được chìa khóa để đánh thắng Mỹ, đầu năm 1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được triệu tập ra Hà Nội để chuẩn bị cho bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược và sẵn sàng cho kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 - bước ngoặt chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ. Đáng tiếc, ngày 6/7/1967, ông đột ngột qua đời sau một cơn đau tim. Sự ra đi của ông thật sự là tổn thất lớn với cách mạng Việt Nam.

Là người xuất thân từ nông dân, trưởng thành trong phong trào cách mạng, đã qua thử thách trong lao tù kẻ thù, trở thành Đại tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng là cả quá trình phấn đấu bền bỉ không ngừng, nhưng bất kỳ ở cương vị nào Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vẫn luôn nỗ lực, kiên trì và phát huy năng lực, trở thành người tiên phong trên các mặt trận của cách mạng Việt Nam./.

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)