slider
Phát triển kinh tế số

“Hòa bình và hữu nghị giữa nhân dân toàn thế giới”

02 Tháng 10 Năm 2025 / 5 lượt xem

ThS. Nguyễn Thị Bình

Phòng STKKTL

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người đã dành trọn cuộc đời đấu tranh cho nền hòa bình thực sự, cho giải phóng dân tộc, giải phóng con người và tình hữu nghị quốc tế giữa các dân tộc. Người đã đi xa, nhưng những hình ảnh về một lãnh tụ vĩ đại, đáng kính mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam và bạn bè quốc tế. Lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới thế kỷ XX cho đến hôm nay đã minh chứng sâu sắc cho tư tưởng về hòa bình, hữu nghị và đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Người.

Suốt 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài (1911-1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hòa mình vào phong trào cách mạng của công nhân, tham gia thành lập nhiều tổ chức quốc tế nhằm giải đáp điều Người luôn trăn trở: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”1. Trên con đường tìm hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, Người đã tập hợp những người có cùng tư tưởng yêu hòa bình, đấu tranh cho tự do, độc lập và mong muốn hợp tác hữu nghị với nhân dân thế giới để cùng nhau giải phóng dân tộc mình, đồng thời giúp đỡ được các dân tộc, giai cấp bị áp bức khác. Dù trên hành trình đầy gian khổ để tìm thấy ánh sáng cho dân tộc mình, Người vẫn luôn mang tư tưởng hòa bình, hợp tác và đoàn kết với các dân tộc, giai cấp bị áp bức để cùng giúp nhau giành độc lập, tự do.

Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự khẳng định về quyền bình đẳng của tất cả các dân tộc trên thế giới: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”2. Sau khi Chính phủ lâm thời làm lễ tuyên thệ và nhân dân thề một lòng ủng hộ Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, Người nói: “Độc lập tự do là của quý báu, quý giá vô ngần, ta đã khổ sở bao nhiêu năm mới giành được, cần phải cố gắng giữ gìn, bảo vệ”3.

Chính quyền non trẻ mới ra đời trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn về mọi mặt và đặc biệt phải đương đầu với nhiều mối đe dọa, phá hoại, lật đổ từ các thế lực thù trong, giặc ngoài. Trong tình thế nguy cấp này, bằng nhiều phương pháp đàm phán trực tiếp kết hợp với những thông điệp gửi chính giới, nhân dân Pháp và các nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng hòa bình, đường lối ngoại giao linh hoạt về sách lược nhưng kiên định về chiến lược để vừa giúp nước ta kéo dài được thêm những ngày tháng hòa bình quý giá, vừa tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, củng cố nội lực, bảo vệ nhà nước non trẻ. Trong hơn một năm độc lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (từ 2/9/1945 - 19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc gặp với Sainteny – trưởng phái đoàn quân sự số 5 kiêm đại diện Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Đông Dương; đô đốc D’Argenlieu – Cao ủy Pháp; các tướng quân đội Leclerc, Salan, Morliere. Người còn điện cho tướng De Gaulle, người đứng đầu nước Pháp, gửi thư cho Chủ tịch Quốc hội Pháp, cho những người Pháp ở Đông Dương, gửi điện tới những người đứng đầu các nước Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Vương quốc Anh cùng Bộ trưởng ngoại giao các nước và Chủ tịch Hội đồng Liên hợp quốc đề nghị công nhận nền độc lập của Việt Nam và sớm kết nạp nước ta vào Liên hợp quốc.

Ngày 10/01/1946, Đại hội đồng Liên Hợp quốc họp phiên đầu tiên ở London (nước Anh), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện chào mừng và xin gia nhập Liên Hợp quốc. Trong điện, Người viết: “Chúng tôi tha thiết kêu gọi các ngài hãy mang vấn đề của chúng tôi ra trước Hội đồng Liên Hợp quốc nghiên cứu kỹ càng. Chúng tôi sẽ rất cảm ơn quý ngài nếu quý ngài nói cho thế giới biết những ước nguyện sau này của quốc dân chúng tôi. Quốc dân chúng tôi đã giành được độc lập và giữ vững nền độc lập, thiết tha yêu cầu các ngài công nhận nền độc lập ấy và nhận chúng tôi vào Hội đồng Liên hợp quốc”4.

Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 với đại diện Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang thăm chính thức nước Pháp để thuyết phục nước Cộng hòa Pháp tôn trọng nền độc lập của Việt Nam. Chuyến đi của Người kéo dài 100 ngày trên đất Pháp với những nỗ lực cho hòa bình cùng với phái đoàn Chính phủ Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau đàm phán về quyền chính trị và sự thống nhất của Việt Nam. Do âm mưu phá hoại hòa bình của nhà cầm quyền Pháp, quân Pháp vẫn tiếp tục chiếm đóng Việt Nam ngay cả khi hai bên đang đàm phán nên mọi mong muốn và nỗ lực hòa bình của Người không thể thực hiện. Vậy nên, trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”5.

Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 – 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định chiến lược hòa bình, kiên trì con đường thương lượng, đối thoại khi giải quyết các xung đột. Kể cả khi kẻ thù buộc nhân dân ta đứng lên cầm súng kháng chiến, Người vẫn giương cao ngọn cờ hòa bình, vẫn liên tục gửi thư đến Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, đến các cá nhân trong giới chính trị Pháp như Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch hai đảng tham chính, các tướng lĩnh quân sự Pháp kêu gọi họ chấm dứt chiến tranh bằng phương pháp hòa bình. Suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì kêu gọi phía Pháp ngừng chiến để đối thoại, nối lại các cuộc đàm phán hòa bình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đường lối ngoại giao của Việt Nam là “làm bạn với tất các các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “nhằm xây đắp nền hòa bình thế giới”. Người đã bắc những nhịp cầu hữu nghị, đẩy mạnh giao lưu, tiếp xúc nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, duy trì và củng cố hòa bình, hữu nghị với các quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên đi thăm hữu nghị các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng ở Châu Á. Đến đâu, Người cũng thể hiện tình cảm chân thành và nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam là được sống trong hòa bình, độc lập, có quan hệ hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Trong 15 năm lãnh đạo sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954 – 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè, đồng chí, các lực lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới, đưa cuộc đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nâng tầm vị thế và uy tín của nhân dân ta lên một tầm cao mới.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hòa bình giúp chúng ta xác định được định hướng phát triển của Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó cần lưu ý những vấn đề cốt lõi sau: Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Giữ gìn hòa bình là nhiệm vụ chung của toàn dân. Mỗi người dân Việt Nam phải là một chiến sĩ hăng hái đấu tranh cho hòa bình”6. Bảo vệ hòa bình là trách nhiệm chung của toàn dân, toàn hệ thống chính trị và lực lượng vũ trang. Đây là tầm nhìn vượt thời đại, tư tưởng của Người về hòa bình đã đi trước, thấy trước mọi diễn biến của Việt Nam và thế giới ngày hôm nay.

Thứ hai, Người từng khẳng định: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân chính trong độc lập và tự do thực sự”7. Đó là quyết tâm, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kim chỉ nam cho đấu tranh bảo vệ hòa bình của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng: “Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách hòa bình; tin chắc các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”8. Đấu tranh bảo vệ hòa bình phải dựa trên công lý, chính nghĩa, tự do và bình đẳng.

Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, muốn có hòa bình “cần phải dựa trên các nguyên tắc: Bình đẳng, không can thiệp vào nội trị của nhau, không xâm lược nhau, tôn trọng lãnh thổ toàn vẹn, chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc của nhau”9. Trong thời kỳ mới, đấu tranh phải dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, pháp lý trong quan hệ quốc tế để thuyết phục, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là sự kế thừa truyền thống bang giao hàng nghìn năm của dân tộc đồng thời là bước phát triển rực rỡ lên tầm cao của nền ngoại giao hòa bình và cách mạng. Tư tưởng hòa bình, hợp tác, hữu nghị, đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng có tầm chiến lược, đi trước thời đại, tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta hợp tác cùng phát triển với các quốc gia trong và ngoài khu vực.

Tư tưởng của Người đã và đang được vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế hiện đang có nhiều biến đổi phức tạp với những cơ hội và mưu đồ đan xen, tác động đến nền hòa bình, hợp tác và tình hữu nghị của nước ta với các quốc gia trên thế giới.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.461

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.1.

3. Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.3, tr.1.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.180.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.534.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.518.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.602.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.12.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.323.

 

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)