Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công theo tư tưởng Hồ Chí Minh
ThS. Phạm Thái Phương
Phòng Hành chính, Tổng hợp
Sự tăng trưởng của nền kinh tế đòi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn lực, trong đó tài sản công được coi là một nguồn lực quan trọng và cần thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế để đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường. Do đó, vấn đề nhận thức sâu sắc để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nói chung, trong quản lý, sử dụng tài sản công nói riêng luôn là việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. 1. Khái niệm “tiết kiệm” xuất hiện nhiều trong các cuốn từ điển tiếng Việt và từ điển thuật ngữ chuyên ngành với nội dung tiết kiệm là sử dụng đúng mức, vừa phải, tránh lãng phí nhưng vẫn đạt được mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, tùy theo mỗi lĩnh vực, ở mỗi góc độ khác nhau, có khái niệm “tiết kiệm” khác nhau. Đúc kết quan điểm của các nhà kinh tế học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, coi tiết kiệm là một quy luật, một phương pháp của quản lý kinh tế, không chỉ tiết kiệm khi đất nước còn nghèo, còn khó khăn về vật chất mà ngay cả khi có đầy đủ thì cũng phải thực hành tiết kiệm. Trong bài viết “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về tiết kiệm: Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là “xem đồng tiền to bằng cái nống”1, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”2.
Về thực hành tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tiết kiệm bao gồm: tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của và tất cả mọi người, mọi cơ quan đều phải tiết kiệm. Theo quan điểm của Người, nếu khéo tiết kiệm sức người, tiền của và thời gian thì với sức lao động, tiền tài của đất nước có thể tăng gia sản xuất gấp bội mà lực lượng mọi mặt của đất nước cũng tăng gấp bội.
Trong nhiều văn kiện của Đảng và trong các văn bản của Nhà nước, nhất là trong các công trình nghiên cứu về kinh tế, luật pháp,… thì từ “tiết kiệm” được sử dụng khá phổ biến. Theo đó tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhưng vẫn đạt được mục tiêu xác định hoặc sử dụng đúng định mức nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định. Nhìn nhận rộng hơn, tiết kiệm là biểu hiện của sự quý trọng thời gian, tiền bạc, sức lao động; lối sống, cách sống, phương pháp, cách thức hợp lý trong làm việc, hoạt động của cá nhân, tổ chức; tiết kiệm sẽ tạo cho con người phong cách giản dị, chân thành, không xa xỉ, khoe khoang... Đây cũng là một truyền thống, nét văn hóa đẹp của dân tộc Việt Nam.
Trái ngược với tiết kiệm là lãng phí. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãng phí là tiêu dùng bừa bãi; lãng phí bao gồm lãng phí sức lao động, lãng phí thời gian, lãng phí tiền của, lãng phí của cải vật chất của nhân dân, của đất nước. Trong văn bản luật, khái niệm “lãng phí” được định nghĩa là việc sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ, nhưng chất lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu đã xác định3. Khoản 2, Điều 3 của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 cũng quy định rõ lãng phí là: việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định4.
Có thể nhìn nhận lãng phí ở nhiều biểu hiện khác nhau: Lãng phí chính là chi cho những việc không đáng chi và chi ở những mức không đáng chi; lãng phí là sử dụng không hiệu quả nguồn nhân lực, vật lực của quốc gia, của cơ quan, đơn vị và của từng gia đình, từng cá nhân cụ thể. Lãng phí có ngay trong tư duy của mỗi con người qua các biểu hiện lệch lạc như thói xa hoa, phô trương hình thức, vung tay qua trán, sống hôm nay không biết ngày mai, sự vô trách nhiệm… và là hiện tượng nguy hiểm với bất kỳ loại hình xã hội nào.
Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí là hai mặt của một vấn đề, phải luôn đồng hành thì hai mặt này mới có hiệu quả. Tiết kiệm là một vấn đề có tính quy luật trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Từng quốc gia và từng gia đình sẽ không thể giàu mạnh nếu để xảy ra tình trạng lãng phí một cách phổ biến.
Ngược lại, quốc gia và gia đình sẽ giàu hơn lên, mạnh hơn lên nếu thực hành được chế độ tiết kiệm một cách hợp lý. Chống lãng phí luôn phải đi đôi với thực hành tiết kiệm. Muốn không lãng phí trước hết phải đề phòng các hành vi lãng phí có thể xảy ra, phải thường xuyên rèn luyện đạo đức, tác phong cần, kiệm. 2. Tài sản công là nguồn lực quan trọng, có phạm vi rộng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản quốc gia, là nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia. Nhà nước là chủ sở hữu (hoặc đại diện chủ sở hữu) của mọi tài sản công nhưng chủ thể trực tiếp quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công là các cơ quan, đơn vị được Nhà nước giao quản lý, sử dụng tài sản công (gồm: Cơ quan nhà nước; Đơn vị sự nghiệp công lập; Cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam; Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội; Cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quản lý, sử dụng tài sản công theo quy định của pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công và quy định pháp luật có liên quan) để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Chính vì thế, để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản của mình, Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tài sản công nhằm sử dụng, bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công một cách tiết kiệm, hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, có thể hiểu thực hành tiết kiệm, lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công gồm các nội dung như sau: - Tiết kiệm trong quản lý, sử dụng tài sản công là việc giảm bớt hao phí trong sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định. Đối với việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, nguồn nhân lực, sức lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên ở những lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì tiết kiệm là việc sử dụng ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng đạt cao hơn mục tiêu đã định.
- Lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công là việc sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên vào những việc không cần thiết, chưa cần thiết hoặc không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, nguồn nhân lực, sức lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng không đạt mục tiêu đã định. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm suy yếu các nguồn lực để phát triển đất nước, làm thất thoát ngân khố quốc gia, kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
Nêu cao và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí điện, nước, thời gian, tiền của, sức lao động… là để tăng gia sản xuất, để dần nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân; để tích trữ thêm vốn và các nguồn lực quan trọng cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Bởi, xét về mặt bản chất, tài sản công gắn chặt với lợi ích công. Lợi ích công ở đây được hiểu là lợi ích của công chúng, có liên quan đến công chúng, hoặc vì lợi ích công chúng, dùng chung, lợi ích công cộng.
Tài sản công giúp nhà nước cung cấp các dịch vụ công đáp ứng nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân, góp phần tạo ra một xã hội công bằng, ổn định. Sử dụng tài sản công vào các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học kĩ thuật giúp con người phát triển, duy trì những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Tài sản công còn được Nhà nước sử dụng để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có tác dụng điều tiết khoảng cách phân hóa giàu nghèo trong xã hội, góp phần đảm bảo sự công bằng trong xã hội… Chính vì vậy, việc tăng cường quản lý đối với tài sản công, bảo vệ lợi ích công, luôn hướng tới mục đích tiết kiệm, chống lãng phí là hết sức quan trọng cả về ý nghĩa kinh tế và xã hội.
Hiện nay, việc quản lý tài sản công (thực chất là quyền chiếm hữu) ở nước ta chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện bằng cơ chế phân công, phân cấp, theo đó, có những quyền do một cơ quan thực hiện, có những quyền do nhiều cơ quan cùng thực hiện (cùng chịu trách nhiệm).
Do đó, quá trình quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công cũng luôn tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, bởi: Bản chất tài sản công là sở hữu chung, vì là của chung nên thường nảy sinh quan niệm “không phải của mình”. Thêm vào đó, nhiều đơn vị được giao quản lý, sử dụng tài sản công do còn nặng tư tưởng bao cấp nên chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng tài sản, công tác kế toán, tính hao mòn tài sản còn chậm, thậm chí còn chưa thực hiện.
Đây là kẽ hở để phát sinh thất thoát, lãng phí… Nếu không nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể được giao quyền quản lý, sử dụng, không hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật, không gắn với kiểm tra, giám sát thường xuyên, chặt chẽ, tất yếu nảy sinh tham nhũng, tiêu cực, “biến của công thành của tư”, biến tài sản nhà nước thành tài sản của cá nhân hoặc của một nhóm người.
Vấn đề thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nói chung, trong quản lý, sử dụng tài sản công nói riêng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài để bảo đảm quản lý chặt chẽ tài sản công – nguồn lực quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Nhất là khi đất nước ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để bước vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển bứt phá, giàu mạnh. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, quan liêu, tiêu cực với tinh thần quyết tâm cao. Trong hai bài viết mới đây nhất của Tổng Bí thư Tô Lâm là “Chống lãng phí” viết tháng 10/2024 và “Thực hành tiết kiệm” viết tháng 6/2025 đã thể hiện rõ quan điểm: để đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới và thành công, nhất định toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải ra sức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Do vậy, việc nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận như khái niệm và nội hàm của tiết kiệm, lãng phí, đặc điểm tài sản công và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công tạo cơ sở khoa học xây dựng các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng tài sản công trong thời gian tới tại Việt Nam càng có ý nghĩa thiết thực. Đó cũng chính là quá trình chúng ta lan tỏa, phát huy giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực tiễn ngày hôm nay.
Ghi chú:
1. Tiếng địa phương nghĩa là cái nong (BT).
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.352
3. Ủy ban thường vụ quốc hội (1998), Pháp lệnh số 2-L/CTN ngày 26/2 về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí số 44/2013/QH13 ngày 26/11, Hà Nội.