slider
Phát triển kinh tế số

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc – định hướng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam

01 Tháng 10 Năm 2025 / 6 lượt xem

Nguyễn Thị Lệ Thủy

Phòng Tuyên truyền, Giáo dục

Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra bước ngoặt lịch sử quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ là nền tảng cho công cuộc giành lại quyền tự quyết mà còn là kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng đất nước.

Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng, việc kế thừa và phát triển tư tưởng ấy càng trở nên cấp thiết.

1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không hình thành một cách riêng lẻ, mà kết tinh từ quá trình dài tìm kiếm con đường cứu nước, kết hợp hài hòa giá trị truyền thống của dân tộc với tinh hoa tư tưởng nhân loại. Chính những trải nghiệm thực tiễn đã giúp Người xây dựng nên một hệ tư tưởng vừa thấm đẫm tính nhân văn, vừa hiện thực và khoa học.

Một là: Từ truyền thống văn hóa dân tộc đến khát vọng độc lập. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Nghệ An - vùng đất giàu truyền thống yêu nước. Những câu ca dao, tục ngữ, các câu chuyện, những tấm gương anh hùng chống ngoại xâm của quê hương, đất nước đã sớm hình thành trong Người ý thức sâu sắc về tự do và khát vọng giải phóng dân tộc. Tư tưởng độc lập của Người không chỉ là sản phẩm lý luận mà còn được hình thành từ chính những nỗi đau mà Người chứng kiến, nhất là cảnh đất nước bị đô hộ, nhân dân sống cơ cực.

Hai là: Tác động từ các phong trào cách mạng thế giới. Trong suốt những năm hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt tại Pháp, Anh, Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, học hỏi nhiều từ các phong trào đấu tranh giành độc lập và tự do dân tộc của các nước. Những cuộc cách mạng vĩ đại như Cách mạng Tháng Mười Nga và phong trào giải phóng ở các thuộc địa đã có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Người. Qua đó, Hồ Chí Minh lĩnh hội những bài học quý về sức mạnh quần chúng, sự đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức. Người nhận thức rằng độc lập dân tộc chỉ có thể đạt được khi gắn liền đấu tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy, lý luận của Người về độc lập dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội, khẳng định giá trị thực sự của độc lập chỉ bền vững khi dân tộc xây dựng được một xã hội công bằng, không còn áp bức, bóc lột.

Ba là: Sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc với lý luận xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh luôn gắn những giá trị truyền thống của Việt Nam với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, độc lập dân tộc không chỉ dừng ở quyền tự chủ về chính trị mà còn phải được giữ vững bằng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Người nhấn mạnh, chỉ khi xã hội đạt công bằng, quyền lực thuộc về nhân dân, độc lập dân tộc mới thực sự bền vững. Trên cơ sở ấy, Hồ Chí Minh đã hình thành hệ lý luận về phát triển toàn diện đất nước, lấy độc lập dân tộc làm nền tảng, chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu.

Bốn là: Tư tưởng độc lập dân tộc được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng. Từ khi tham gia các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh đã kiên trì đưa tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền thực tiễn đấu tranh. Người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng chính quyền cách mạng của nhân dân. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh khẳng định mạnh mẽ quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, đồng thời kết hợp mục tiêu ấy với xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng của Người thể hiện rõ quan điểm: độc lập dân tộc không chỉ là quyền thiêng liêng của mỗi quốc gia, mà còn là điều kiện tiên quyết để kiến tạo một xã hội tiến bộ, hạnh phúc.

2. Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ phản ánh khát vọng tự do mãnh liệt của nhân dân Việt Nam, mà còn hàm chứa những giá trị nhân văn cao đẹp, hướng tới tự do, hòa bình, hạnh phúc cho toàn nhân loại. Người luôn khẳng định độc lập dân tộc là mục tiêu cao nhất của cách mạng, đồng thời nhấn mạnh độc lập phải đi liền với tự do, bình đẳng và công lý trong xã hội. Chính những giá trị ấy đã trở thành nền tảng lý luận vững chắc cho cách mạng Việt Nam và lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.

Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập dân tộc là nền tảng bền vững để xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người đanh thép tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”1. Đây chính là điểm xuất phát cho mọi cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết, quyền làm chủ vận mệnh của nhân dân Việt Nam. Quan điểm này thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc của Hồ Chí Minh về bản chất của cách mạng giải phóng dân tộc: không có độc lập thì không thể phát triển, không thể làm chủ vận mệnh mà chỉ có thể sống kiếp nô lệ, phụ thuộc.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập không chỉ đơn thuần là giành lại chủ quyền lãnh thổ, mà còn là quyền làm chủ về chính trị, tự do lựa chọn con đường phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi dân tộc giành được độc lập, đất nước mới thực sự phát triển tự chủ, không bị bất kỳ thế lực ngoại bang nào chi phối.

Không dừng lại ở mục tiêu giành lại độc lập, Hồ Chí Minh còn coi việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, phát triển bền vững là nhiệm vụ luôn gắn bó chặt chẽ với độc lập dân tộc. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người khẳng định mạnh mẽ: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”2 Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội chính là con đường tất yếu để giữ vững và phát huy thành quả của độc lập dân tộc, đồng thời bảo đảm mọi quyền lợi chính đáng của nhân dân lao động. Người coi chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý thuyết mà là con đường thực tiễn để xây dựng một xã hội không còn áp bức, bất công. Người chỉ rõ: độc lập dân tộc không thể bền vững nếu thiếu một nền kinh tế công bằng, phát triển cân đối và không còn phân biệt giai cấp. Người khẳng định: “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển công nghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp”3. Người cũng nhấn mạnh: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”4. Đây chính là cơ sở quan trọng để bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước phát triển toàn diện, công bằng, văn minh.

Sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng việc giữ gìn và phát triển nền độc lập ấy là trách nhiệm lâu dài, cần sự đồng lòng của toàn dân tộc. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.”5 Đây là lời nhắn nhủ thiêng liêng, nhắc nhở các thế hệ hôm nay và mai sau luôn đặt độc lập dân tộc lên hàng đầu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Song song với đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật để giữ vững và củng cố nền độc lập. Người mong muốn “toàn thể đồng bào gắng sức theo đời sống mới, xây dựng một nước Việt Nam mới phú cường.”6 Chỉ khi xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, phát triển bền vững, nhân dân mới có điều kiện tham gia tích cực vào sự nghiệp dựng xây, bảo vệ Tổ quốc và gìn giữ thành quả độc lập.

Như vậy, những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc chính là nền tảng lý luận vững chắc, dẫn dắt sự nghiệp giữ vững chủ quyền đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ, vì mục tiêu hạnh phúc cho nhân dân.

3. Ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ là ngọn đuốc soi đường cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX, mà còn là nguồn cảm hứng và động lực to lớn cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời đại ngày nay. Dù Việt Nam đã giành được độc lập, song tư tưởng của Người vẫn giữ nguyên giá trị chiến lược trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đầy biến động và phức tạp. Những quan điểm ấy không chỉ định hướng cho các quyết sách chính trị, đối ngoại mà còn là kim chỉ nam vì sự phát triển bền vững của đất nước.

Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Trải qua 80 năm kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập cho đến ngày hôm nay nền độc lập của Việt Nam đã được khẳng định, nhưng nhiệm vụ giữ gìn và phát huy thành quả ấy trong bối cảnh thế giới biến động không ngừng vẫn đặt ra nhiều thách thức mới. Đặc biệt, trước sự cạnh tranh chiến lược, xung đột lợi ích giữa các cường quốc, Việt Nam càng phải kiên định giữ vững chủ quyền, bảo vệ nền độc lập dân tộc, không để bất cứ thế lực nào chi phối hay can thiệp.

Một trong những thách thức lớn hiện nay là các cuộc cạnh tranh thương mại, công nghệ cùng những biến động địa chính trị phức tạp. Trong bối cảnh đó, việc kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương, đa dạng hóa quan hệ quốc tế là điều vô cùng quan trọng. Hồ Chí Minh khẳng định rằng độc lập dân tộc cần được duy trì trong quan hệ hòa bình, hữu nghị với cộng đồng quốc tế. Người chủ trương đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, đoàn kết với các dân tộc yêu chuộng tự do trên thế giới. Năm 1946, trong Lời kêu gọi gửi Liên Hợp Quốc, Người nhấn mạnh: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình.

Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước.”7 Tinh thần đoàn kết quốc tế ấy đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt, soi đường cho chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia – dân tộc trong thời kỳ hội nhập.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải đi đôi với giải phóng xã hội và giải phóng con người, nghĩa là không chỉ giành lại quyền tự quyết cho quốc gia, mà còn xóa bỏ bất công, chấm dứt áp bức giai cấp, tạo điều kiện để mỗi con người được phát triển toàn diện, sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Đây chính là con đường phát triển, là mục tiêu và cũng là triết lý phát triển của Việt Nam trong thời đại mới.

Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc ngày nay không chỉ là quyền thiêng liêng mà còn là yếu tố then chốt đảm bảo sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập không thể bền vững nếu đất nước còn nghèo đói, lạc hậu, xã hội còn bất công, chênh lệch. Vì vậy, giữ vững độc lập phải gắn liền với phát triển toàn diện, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển đồng bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc tiếp tục là nguồn động lực, điểm tựa tinh thần và kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc hội nhập, phát triển, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh giành tự do, mà còn là nền tảng lý luận vững chắc cho công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những giá trị ấy càng trở nên quý giá, đặt ra yêu cầu phải vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn, góp phần giữ vững độc lập, củng cố chủ quyền và nâng cao vị thế quốc gia.

Thứ nhất, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ thiêng liêng và sống còn. Thực tế cho thấy, cạnh tranh chiến lược, xung đột lợi ích giữa các cường quốc cùng những vấn đề an ninh phi truyền thống đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với Việt Nam. Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”8

Do đó, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân.

Việc củng cố tiềm lực quốc phòng, xây dựng nền an ninh vững mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Thứ hai, phát triển con người Việt Nam toàn diện là yếu tố then chốt để giữ vững độc lập và phát huy nội lực dân tộc. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò quyết định của con người, Người khẳng định: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá.”9 Phát triển con người toàn diện không chỉ là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn là bồi dưỡng đạo đức, bản lĩnh, ý thức tự lực, tự cường và tinh thần yêu nước. Trong thời đại hội nhập, điều này càng quan trọng để thế hệ trẻ đủ năng lực tiếp thu tri thức nhân loại, làm chủ khoa học - công nghệ, sẵn sàng cống hiến cho đất nước.

Thứ ba, phát triển kinh tế bền vững là nền tảng để bảo vệ và phát huy giá trị của độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh coi kinh tế là gốc rễ của độc lập, tự do và hạnh phúc. Người khẳng định: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”10. Một quốc gia không thể độc lập thực sự nếu nền kinh tế yếu kém, phụ thuộc. Do vậy, cần xây dựng nền kinh tế tự chủ, hiện đại, gắn phát triển nhanh với phát triển bền vững, hài hoà giữa tăng trưởng và bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam phải đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, nâng cao năng suất lao động, bảo đảm sinh kế bền vững cho nhân dân, đồng thời giữ gìn tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau.

Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc chính là kim chỉ nam để Việt Nam vững vàng vượt qua thử thách, phát huy sức mạnh đại đoàn kết, phát triển đất nước phồn vinh, bền vững. Trước những biến động khó lường của thế giới, di sản tư tưởng của Người tiếp tục là ngọn lửa hun đúc ý chí, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giữ vững độc lập, nâng cao vị thế quốc gia, xây dựng thànhcông một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - xứng đáng với khát vọng của Bác Hồ kính yêu và bao thế hệ đã hy sinh vì nền độc lập hôm nay. Đó chính là hành trang tinh thần để dân tộc Việt Nam vững bước ra biển lớn, tự tin hội nhập, phát triển bền vững và trường tồn cùng thời đại.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 1.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 3.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 361.

4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 362.

5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 624.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 128.

7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 522.

8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 131.

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 345.

10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 147.

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)