CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - “NGƯỜI VIỆT NAM, VIỆT NAM HƠN NGƯỜI VIỆT NAM NÀO HẾT!”
15 Tháng 11 Năm 2010 / 7301 lượt xem
ThS Vũ Kim Yến
Phòng Sưu tầm-Kiểm kê-Tư liệu
Lắng nghe tiếng nói Chủ tịch Hồ Chí Minh, tìm hiểu cách sử dụng ngôn ngữ của Người, đặc biệt là vốn tục ngữ, ca dao của dân tộc, thấm nhuần những câu châm ngôn mới do Người đặt ra, chúng ta càng hiểu rõ vì sao Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chủ tịch là người Việt Nam, Việt Nam hơn người Việt Nam nào hết. Ngót ba mươi năm bôn tẩu bốn phương trời, Người vẫn giữ thuần tuý phong độ, ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam. Ngôn ngữ của Người phong phú, ý vị như ngôn ngữ người dân quê Việt Nam; Người khéo dùng tục ngữ, hay nói ví, thường có lối châm biếm kín đáo và thú vị. Làm thơ, Người thích lối ca dao, vì ca dao là Việt Nam cũng như núi Trường Sơn, hồ Hoàn Kiếm hay Đồng Tháp Mười vậy…”(i).
1. Tiếng nói Bác Hồ - chân thực, trong sáng và giản dị
Là anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ cộng sản quốc tế, người đã hiến cả cuộc đời mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống ở nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hoá. Thuở nhỏ, Người sống trong một gia đình nhà nho, với cụ thân sinh xuất thân khoa cử, Người được học chữ nho trong nhiều năm. Khi học tại trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba và trường Quốc học ở Huế, Người được học thêm tiếng Pháp. Năm 21 tuổi, Người ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba từ châu Á sang châu Âu, từ châu Phi sang châu Mỹ, sống xa Tổ quốc 30 năm dài. Trong thời gian đó, Người đã tự học và sử dụng nhiều thứ tiếng nước ngoài như Pháp, Nga, Đức, Tây Ban Nha,… để hoạt động cách mạng. Ở nước ngoài trong thời gian dài, thông thạo tiếng nước ngoài như người bản ngữ thì sẽ dễ nói và viết theo giọng văn nước ngoài. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không như vậy, Người luôn đề cao và khẳng định “tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”(ii).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi ngôn ngữ là công cụ đắc lực, không thể thiếu để tuyên truyền, giác ngộ ý thức cách mạng, củng cố và nâng cao nhận thức xã hội của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Người tìm hiểu những tư liệu tích lũy từ báo chí và từ thực tiễn để học làm báo, viết báo. Người say mê đọc Sếchxpia, Đíchken, Lỗ Tấn, Huygô, Zola, Annatôn Phơrăngxơ, Lép Tônxtôi… Chính những người thầy ấy, thông qua tác phẩm và hình tượng nhân vật được biểu thị bằng ngôn ngữ đã dạy Chủ tịch Hồ Chí Minh các ngôn ngữ Anh, Pháp, Trung,… để rồi Người viết báo, viết truyện, viết kịch…
Về mặt nội dung, lời nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng sôi nổi, có tính chiến đấu cao, sâu sắc, chính xác về lôgic, đồng thời luôn toát ra thái độ ung dung, thư thái, giàu tinh thần lạc quan và nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Các bài viết nhiều khi được điểm thêm bằng những ý có chất thơ, dí dỏm bất ngờ, hoặc châm biếm tao nhã.
Mỗi bài nói, bài viết của Người đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những con số, những sự kiện đã được xem xét, kiểm tra, chọn lọc. Vì vậy, chúng luôn đem lại cho người đọc, người nghe lượng thông tin cao, chân thực và chính xác. Chân thực cũng là yêu cầu đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra đối với cán bộ, đảng viên khi nói, khi viết. Người thường nhắc nhở: “Viết phải đúng sự thật, không được bịa ra”; không nên nói ẩu”; “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói chớ viết”…
Về mặt hình thức, cách diễn đạt và ngôn từ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng rất tự nhiên, nhuần nhuyễn, phù hợp với trình độ nhận thức, sự hiểu biết và cách suy nghĩ của từng đối tượng người đọc, người nghe. Năm 1946, một ủy viên ban vận động đời sống mới lên trình bày cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh ba nguyên tắc của đời sống mới: “dân tộc-dân chủ-khoa học” và phát biểu ý kiến rằng khẩu hiệu “cần - kiệm - liêm - chính” có vẻ cổ. Người nói: “Hay lắm, nhưng mình phải xem đồng bào bây giờ cần gì. Tôi hỏi thật chú, chú đi vận động đời sống mới thì chú làm gì trước?”.
Anh ủy viên đời sống mới nói đến nào tuyên truyền, nào tổ chức. Hồ Chủ tịch lắc đầu và trỏ vào bụng: “Trước hết là cái này. Dân chúng cần cái này trước hết. Phải ăn đã. Chú không ăn thì chú có đi tuyên truyền được không? Mà muốn có ăn thì phải làm gì?
- Thưa cụ phải làm việc.
- Đúng, phải làm việc, phải siêng năng, thế là “cần” đấy...”
Câu chuyện trên đây có thể áp dụng cho bất cứ lời nói, câu văn nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lời nói, bài viết của Người bao giờ cũng mộc mạc, giản dị như lời nói ngày thường của mọi người dân lao động. Người thường dùng câu đơn và những từ ngữ dễ hiểu. Từng câu và cả bài ngắn gọn, không có một câu thừa, chữ thừa, tiết kiệm lời mà dồi dào ý tứ, giàu hình ảnh, nhiều thành ngữ, tục ngữ, có khi lại chêm một câu lẩy Kiều hay một vài câu thơ nhịp nhàng, cân đối. Đặc biệt, Người không chịu gò bó ý và lời trong những khuôn mẫu sẵn có. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi người cũng chỉ bằng những ngôn từ quen thuộc - dù đó là những vấn đề của cuộc sống chiến đấu, lao động hàng ngày hay những vấn đề lớn của đất nước, của thời đại, đúng như nhà báo nổi tiếng U.Bơcset nhận xét: “nét điển hình ở Hồ Chí Minh là chỉ với một vài từ hoặc một vài hình ảnh, Người có thể trình bầy được những vấn đề phức tạp”. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, một số trí thức bàn tán, ca tụng về vị Chủ tịch nước nói được nhiều thứ tiếng nước ngoài. Một nhà giáo dục lúc đó thường hay đi khoe rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh biết tiếng Anh giỏi hơn cả một vài người đã từng ở lâu năm và đậu bằng cấp cao bên Anh. Nhưng còn những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nói bằng tiếng Việt và cách nói những điều ấy thì lại thực làm cho nhiều người ngạc nhiên. Đọc những bức thư, những câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghe Người nói về chính trị, văn hóa, có người như muốn tự hỏi thầm: “Thế này thôi ư?”. Nói về thời cơ “vàng” của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, Người tổng kết bằng một cụm từ rất ngắn gọn: “Pháp chạy, Nhật hàng, Vua Bảo Đại thoái vị”. Nói về đời sống mới, Người nêu vỏn vẹn có 4 từ: Cần - Kiệm - Liêm - Chính. Nói tới đường lối đấu tranh, Người hô hào: Toàn dân đoàn kết!.
Giản dị, thực tế, luôn bắt nguồn từ đời sống thường ngày, nên văn chương của Chủ tịch Hồ Chí Minh không khô khan lạnh lẽo. Tiếng nói của Người đầm ấm, thấm nhuần tâm hồn, tình cảm, cốt cách của người Việt Nam. Người không chỉ là nhà tư tưởng mà còn là nghệ sĩ của nhân dân. Mấy ai quên được bức thư trung thu đầu tiên trong kháng chiến của Người gửi cho nhi đồng: “trăng thu soi xuống các cháu êm ái như một người mẹ lành”. Nhắc nhở đồng bào phải cố gắng vượt bậc, Người nói: “Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước, chí quật cường chẳng kém ai...”. Và chắc cũng ít ai kìm được xúc động khi lắng nghe tâm can Người: "Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Bình sinh như thế, đứng trên địa vị Chủ tịch Chính phủ kháng chiến kêu gọi quốc dân, Người dùng những lời nói thống thiết đi sâu vào tâm hồn Việt Nam: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Để viết và nói được trong sáng giản dị, dễ hiểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng phải chống lại căn bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ, bệnh sính dùng chữ nước ngoài: “Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: những chữ kinh tế, chính trị, v.v., thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ "độc lập". Nếu "Việt Nam độc lập" mà nói "Việt Nam đứng một" thì không thể nghe được. Nhưng có những tiếng ta sẵn có, thì tại sao lại dùng chữ nước ngoài. Ví dụ: vì sao không nói "đường to" mà lại nói "đại lộ", không nói "người bắn giỏi" mà lại nói "xạ thủ", không nói "hát múa" mà lại "ca vũ"?”(iii).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cả tập thơ “Nhật ký trong tù” bằng chữ Hán, có thể xướng hoạ thơ đường với các vị khoa bảng hay với các đồng chí Trung Quốc nhưng khi làm báo, viết báo, khi nói, khi viết cho đồng bào chưa có điều kiện học nhiều chữ, Người hết sức hạn chế sử dụng từ Hán và Hán-Việt hay dùng bất cứ một từ ngữ khó hiểu nào. Những ngày trước Cách mạng Tháng Tám, thơ cổ động của Người đều sử dụng những từ ngữ hết sức mộc mạc, kêu gọi đoàn kết, đấu tranh như bài thơ “Hòn đá”, “Việt Nam độc lập”, “Dân cày”, “Phụ nữ”, “Công nhân”, “Mười chính sách của Việt Minh”… Khi cần thiết sử dụng từ Hán-Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chọn lọc rất kỹ mới sử dụng. Ví dụ như, trong bức điện gửi về cho dòng họ Nguyễn Sinh tháng 11-1950, khi nghe tin ông Cả Khiêm mất: “Tôi xin chịu tội bất đễ trước linh hồn anh”. “Bất đễ” tức là Người xin chịu tội không tôn kính đối với bậc huynh trưởng (anh), vì việc nước bận nhiều và đường xá xa cách…
2. Người luôn bảo vệ, phát triển tiếng nói của dân tộc
Yêu tiếng Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cho rằng: “tiếng ta còn thiếu, cần được bổ sung thêm”. Vì thế, trong khi nói và viết, Người hết sức chú ý phát huy, phát triển vốn từ ngữ của dân tộc. Có thể nói rằng, tiếng Việt đã cung cấp những phương tiện đa dạng, dồi dào để Người diễn đạt tư tưởng, tình cảm còn Người thì đã có công lao góp phần làm cho tiếng Việt thêm phong phú.
Với chất liệu sẵn có của tiếng Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một số từ ngữ mới, một số ca dao, tục ngữ mà hiện nay chúng ta đã quen dùng như: giặc đói; giặc dốt; óc bè phái; óc hẹp hòi; nghị quyết túi áo, thông cáo túi quần; quan sơn muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em; ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cầy là vũ khí; không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền,… Người đã truyền cho nhiều từ ngữ những nội dung mới hoặc những sắc thái ý nghĩa mới. Dưới ngòi bút của Người, những từ trung, hiếu, cần, kiệm, liêm, chính, nhân, nghĩa,… đã có ý nghĩa khác xưa.
Một đặc điểm rất nổi bật là những câu tục ngữ, ca dao của dân tộc đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong ngôn ngữ trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể tìm thấy ca dao, tục ngữ… xuất hiện khá nhiều trong các nói, bài viết với đủ mọi đề tài, cho đủ mọi đối tượng giao tiếp của Người. Sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Người nhắn nhủ với đồng bào Nam Bộ rằng: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”(iv). Như vậy là ý nghĩa của câu tục ngữ cũ đã được mở rộng thành tinh thần cả đoạn văn. Hình ảnh cũ mà vẫn rất gần gũi với chúng ta.
Cũng được cải biên theo cách ấy, câu: “Nực cười châu chấu đá xe - Tưởng rằng cháu ngã, ai dè xe nghiêng” đã đổi mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam, tháng 2-1951, nói về cuộc trường kỳ kháng chiến của ta, Bác Hồ đã phân tích: “Lực lượng ta và địch so le nhiều như thế, cho nên lúc đó có người cho rằng: cuộc kháng chiến của ta là "châu chấu đấu voi".
Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vông. Nhưng Đảng ta theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta không những nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng và bi quan kia rằng:
Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.
Sự thật đã chứng tỏ rằng "voi" thực dân đã bắt đầu lòi ruột, mà bộ đội ta đã trưởng thành như con hổ oai hùng”(v)
Vốn là một lối diễn đạt quen thuộc nhưng hình ảnh so sánh đã được đổi mới giúp ta hiểu rõ hơn về đường lối trường kỳ kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi. Hình ảnh ấy xuất phát từ hai nguồn: thực tiễn lịch sử đã hình tượng hoá trong câu tục ngữ cũ và cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh của dân tộc ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thật khéo léo và tinh tế khi sử dụng hai nguồn kết hợp với nhau, với dụng ý khẳng định sức mạnh tạo nên những thắng lợi to lớn của chúng ta ngày nay không tách rời sức sống của bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Năm 1953, thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc một giai đoạn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, một nửa đất nước được hoàn toàn giải phóng, miền Bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc này hướng nhân dân miền Bắc vào những nhiệm vụ mới, đặc biệt quan trọng là nhiệm vụ sản xuất. Khi nói về nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, Người đã vận dụng hàng loạt những trí thức cổ truyền trong tục ngữ. Có những kinh nghiệm còn đúng, có những cái phải bổ sung, có những điều không theo được nữa… Người đều nói đến đúng lúc, đúng chỗ.
“Nước, phân, cần, giống” là một tổng kết có giá trị khoa học của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại kinh nghiệm sản xuất này đồng thời nói những điều mới. Ngày 3/7/1958, trong một bài huấn thị cho cán bộ tỉnh Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những việc cần làm để tranh thủ vụ mùa thắng lợi, có đoạn, Người dùng liên tiếp nhiều câu tục ngữ: “Trước hết, tư tưởng mọi người phải thông, phải thật thông rằng "Nhân định thắng thiên". Để tranh thủ vụ mùa thắng lợi, chúng ta phải sửa chữa những khuyết điểm và phát triển những ưu điểm nói trên. Chúng ta phải làm những việc sau đây:
1. Nước: Hiện nay vụ mùa đến, nhưng vẫn hạn…Chúng ta phải thực hiện "vắt đất ra nước, thay trời làm mưa".
Phải kiên quyết động viên và dựa vào lực lượng vô cùng vô tận của quần chúng để làm cho có nước.
Toàn dân đoàn kết một lòng,
Đập đá thì núi vỡ, đào sông thì nước về.
2. Phân: Bón mỗi mẫu 50 gánh phân, như thế ít quá. Cần phải cố gắng bón nhiều hơn nữa. Tục ngữ nói: "Một gánh phân cân một đấu thóc". Bón phân càng nhiều, thu hoạch càng tăng…
3. Cày sâu: Tục ngữ ta có câu: "Cày sâu cuốc bẫm, thóc đầy lẫm, khoai đầy bồ".
4. Cấy dày.
5. Chọn giống tốt: là một điều rất quan trọng. Giống tốt thì lúa tốt, lúa tốt thì được mùa. Điều đó rất dễ hiểu. "Lúa tốt vì giống, lúa sống vì phân"(vi).
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói như vậy. Đó là những điều cốt yếu, Người nói rất ngắn gọn, rất rõ ràng để cán bộ và nhân dân hiểu được, làm được và làm ngay cho kịp thời. Vì mục đích cụ thể, thiết thực ấy, những câu tục ngữ đã đi vào văn nghị luận một cách rất tự nhiên, như không thể thiếu được.
Một ví dụ khác, câu tục ngữ “Có thực mới vực được đạo” từ rất lâu đã trở thành triết lý thực tiễn của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc đến câu tục ngữ này, khi căn dặn anh chị em cấp dưỡng lo cơm canh ngọt cho cán bộ, khi căn dặn các địa phương, các cơ quan nông nghiệp lãnh đạo sản xuất cho tốt, tại các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đặc biệt, có lần Người đã giải thích với cán bộ ngành văn hoá rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta”(vii). Câu tục ngữ quen thuộc, ngắn gọn đã đi vào chủ nghĩa xã hội như thế đấy!
Còn rất nhiều câu tục ngữ về sự giàu có của đất nước như “rừng vàng bể bạc”, về tinh thần cần cù lao động “có công mài sắt có ngày nên kim”, về kinh nghiệm làm ăn “con trâu là đầu cơ nghiệp”… đều được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng để động viên nhân dân hăng hái sản xuất.
Một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là những lời chỉ bảo, khuyên răn rèn luyện đạo đức cách mạng. Những kinh nghiệm sống, những tri thức rút ra từ thực tiễn, những khái niệm đạo đức truyền thống được nhân dân ta đúc kết thành tục ngữ, ngày nay được Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý tiếp thu có phê phán.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quý trọng những giá trị đạo đức truyền thống của nhân dân được đúc kết trong tục ngữ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, một văn kiện quan trọng về công tác xây dựng Đảng, khi giáo dục cán bộ, đảng viên về tinh thần tự phê bình và phê bình, Người nhấn mạnh: “Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức là "quan liêu hoá", tức là tự mãn tự túc, tức là "mèo khen mèo dài đuôi”(viii).
Với tinh thần phê phán nghiêm khắc mà thấm thía, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sử dụng cả những tục ngữ cũ mà ý nghĩa trái với tư tưởng mới ngày nay. Ví dụ như, cha ông ta xưa có câu “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” để chỉ thói xấu của người sản xuất cá thể chỉ biết mình thì ngày nay Chủ tịch Hồ Chí Minh ngăn ngừa thái độ sống đó và giáo dục tinh thần làm chủ tập thể: “Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp công góp của để xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ai cũng phải là một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội”(ix).
Qua tất cả những trường hợp trên, rõ ràng là tục ngữ cũ được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng để diễn đạt, giáo dục nội dung đạo đức mới và để phê phán tư tưởng lạc hậu sai lầm. Những tư tưởng tốt đẹp, lành mạnh ngày xưa được Người tiếp thu, bổ sung và đề cao. Những quan niệm, những kinh nghiệm cũ không còn đúng, Người phê phán để cho chúng ta tránh. Để đề cao hay phê phán điều gì, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường vận dụng tục ngữ, ca dao và xem nó là những bài học kinh nghiệm lâu đời của nhân dân, có thể góp phần giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng con người mới Việt Nam. Với việc sử dụng những đặc trưng về nội dung và hình thức trên, lời nói và bài viết của Người đã mang đậm bản sắc Việt Nam hơn bất kỳ một người Việt Nam nào khác.
(i) Phạm Văn Đồng: Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc, tinh hoa của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974.
(ii) Hồ Chí Minh: Toàn tập (xuất bản lần thứ hai), Nxb Chính trị Quốc gia, H.2009, t.9, tr. 413
(iii) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.412-413
(iv) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.246-247
(v) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.163-164
(vi) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.193-194
(vii) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.59
(viii) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.261
(ix) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.310