slider

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

08 Tháng 08 Năm 2020 / 1600 lượt xem

Nguyễn Thị Lệ Thủy

Phòng Tuyên truyền, Giáo dục

Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (sau này là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh) sớm thấu hiểu nỗi đau mất nước và cuộc sống lầm than, nô lệ của đồng bào mình, Người quyết định ra đi tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc. Trong một lần trả lời phỏng vấn của nhà báo nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã nói: “Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Trong thời gian bôn ba tìm đường giải phóng dân tộc, dù gặp nhiều gian khổ, bị đày trong lao tù đế quốc, nhưng vượt lên những khó khăn, hạn chế của lịch sử, Người vẫn kiên định với con đường đã chọn, kiên nhẫn chờ đợi thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc.

  1. Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, phân tích tình hình thế giới có nhiều chuyển biến cũng như nhận thấy tình thế khẩn trương của cách mạng trong nước, ngày 28/01/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người con ưu tú của dân tộc đã trở về Tổ quốc và quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tại đây, Người tiến hành mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, quân sự ngắn hạn; giao nhiệm vụ cho một số cán bộ mở các xưởng nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và sửa chữa vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang. Người hiểu rất rõ: “việc bổ sung cho kho dự trữ vũ khí và đạn dược của du kích sẽ là một nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài”(1).

Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và trực tiếp chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941), xác định nhiệm vụ cấp thiết nhất của cách mạng nước ta lúc này là giải phóng dân tộc. Theo sáng kiến của Người, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi là Mặt trận Việt Minh) nhằm liên hiệp đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, xu hướng chính trị, tất cả cùng nhau hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh là chủ trương mang tính chiến lược, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Người còn trực tiếp chỉ đạo làm thí điểm xây dựng Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng, nhằm kiểm nghiệm, bổ sung, hoàn thiện về chính cương, điều lệ, phương pháp tổ chức của Mặt trận Việt Minh trước khi mở rộng ra cả nước.

Ngay sau khi thành lập Mặt trận Việt Minh, nhằm tập hợp xây dựng lực lượng cách mạng, ngày 06/6/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi cho nhân dân bức thư “Kính cáo đồng bào”. Bức thư như lời hiệu triệu, khơi dậy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, động viên nhân dân phát huy tinh thần tự lực tự cường, dùng sức mình để tự giải phóng cho mình, đoàn kết toàn dân đánh đuổi Pháp - Nhật. Người chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng... giành tự do độc lập”(2).

Để đưa nhanh Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 vào cuộc sống, tháng 8/1941, Người quyết định xuất bản tờ báo Việt Nam Độc lập. Tờ báo đã trở thành ngọn đuốc soi đường, tuyên truyền cổ vũ, dẫn dắt và tổ chức quần chúng vào các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dành thời gian viết một loạt tác phẩm như: Lịch sử nước ta, Mười chính sách lớn của Việt Minh và nhiều bài đăng trên báo Việt Nam độc lập, báo Cứu quốc với nội dung ca ngợi truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, quật cường của dân tộc, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào các đoàn thể cứu quốc; hướng dẫn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, góp phần tạo ra một cao trào cứu nước mạnh mẽ, chờ đón thời cơ, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Từ năm 1941, quá trình chuẩn bị mọi mặt cho “cuộc giải phóng” diễn ra rộng khắp các địa phương từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn. Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, không khí cách mạng lại sục sôi cao trào đến thế. Để phong trào cách mạng ngày càng phát triển toàn diện và rộng khắp, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí Trung ương đặc biệt quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc, tổ chức nhân dân thành lực lượng chính trị hùng hậu. Tính từ tháng 6/1941 đến tháng 4/1942 đã đào tạo được trên 300 cán bộ Việt Minh.

Bên cạnh việc chú trọng xây dựng lực lượng chính trị, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang cũng rất được quan tâm. Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) ra đời tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, Cao Bằng (nay là huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng). Đội gồm 34 cán bộ, chiến sỹ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Nhằm giúp cho bộ đội, du kích có thêm kinh nghiệm trong chiến đấu, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết các sách: “Cách đánh du kích”, “Kinh nghiệm du kích Tàu”, “Kinh nghiệm du kích Nga” gửi tới các đội du kích. Thời gian này các văn kiện mà lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo đều tập trung vào việc chỉ đạo phát triển lực lượng, đón thời cơ, góp phần thúc đẩy thời cơ mau chín muồi, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Tháng 3/1945, trên cơ sở phong trào cách mạng phát triển, ngay trong đêm phát xít Nhật nổ súng đảo chính Pháp (9/3/1945), Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng, quyết định phát động cao trào “Kháng Nhật, cứu nước”. Ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tổng bộ Việt Minh lập ra Ủy ban Dân tộc giải phóng, tập dượt cho nhân dân nắm chính quyền.

Như vậy, suốt quá trình hoạt động và xây dựng căn cứ địa tại Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian, tâm sức hướng dẫn chỉ đạo, lãnh đạo gây dựng phong trào, tổ chức đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ cốt cán; xây dựng Cao Bằng thành đại bản doanh, căn cứ địa “đầu nguồn” vững chắc.

Trên cơ sở vùng giải phóng đã được mở rộng và liên hoàn, để thuận tiện lãnh đạo phong trào cách mạng chung cả nước, tháng 5/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định chuyển đại bản doanh của Trung ương Đảng từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) - mảnh đất hội tụ đầy đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa: có cơ sở cách mạng tốt, địa hình tốt, thuận tiện làm một trung tâm liên lạc với miền xuôi, miền ngược và nước ngoài. Sau hơn 2 tuần liên tục hành quân gian khổ, Người cùng đoàn về đến Tân Trào an toàn và gấp rút chuẩn bị những điều kiện cần thiết, đón nhận thời cơ cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân từ bọn phát xít, thực dân. Tại đây, Người đã chỉ thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh: Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên và quyết định Tân Trào là Thủ đô Khu giải phóng Việt Bắc, đồng thời thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân Giải phóng.

Khu giải phóng được xây dựng theo Mười chính sách lớn của Việt Minh, thực hiện đánh đuổi bọn phát xít và bè lũ tay sai, chăm lo đời sống và mang lại các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Khu giải phóng. Nhân dân bầu ra chính quyền dưới hình thức Ủy ban Nhân dân Cách mạng để thực hiện việc quản lý, điều hành.

Đến cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, thực lực cách mạng Việt Nam đã phát triển hùng hậu, tình hình quốc tế chuyển biến có lợi cho ta, nhận được tin phát xít Nhật bại trận và sắp đầu hàng Đồng minh, cơ hội cứu nước ngàn năm có một đã tới, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng bàn bạc và quyết định tiến hành họp Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945 tại Tân Trào, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Để tổng khởi nghĩa toàn thắng, Hội nghị nhấn mạnh nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời và đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng. Mục đích cuộc đấu tranh của ta lúc này là giành quyền độc lập hoàn toàn. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Lệnh Tổng khởi nghĩa (Quân lệnh số I) được phát đi lúc lúc 23 giờ đêm ngày 13/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa được bắt đầu từ thời điểm đó.

Ngay sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng kết thúc, Quốc dân Đại hội tiến hành họp ngày 16 và 17/8/1945, tại mái đình Hồng Thái (Tân Trào, Tuyên Quang) dưới sự chủ tọa của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Theo Người, cần phải có một cơ cấu đại biểu quốc dân đủ mạnh, đủ uy tín để thực hiện việc điều hành đất nước: “Trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”(3). Đại hội nhiệt liệt tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng; thông qua Mười chính sách lớn của Việt Minh và quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời quy định Quốc kỳ và Quốc ca của nhà nước Việt Nam mới.

Ngay trong ngày 16/8, Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được truyền đi khắp các tỉnh thành: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ”(4). Thực hiện Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, hưởng ứng Lời kêu Tổng khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 20 triệu nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: Từ ngày 14 đến 18/8, thắng lợi tại nhiều xã, huyện ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Khánh Hòa; Ngày 18/8, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính quyền; Ngày 19/8/1945, hơn 10 vạn nhân dân Hà Nội xuống đường vũ trang thị uy, tổ chức mít tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn. Thành phố Hà Nội đỏ rực cờ cách mạng, cuộc mít tinh khổng lồ của nhân dân trở thành khởi nghĩa giành chính quyền. Lực lượng quần chúng nhanh chóng chiếm Phủ Khâm sai Bắc kỳ, Tòa Thị chính thành phố, Trại Bảo an binh và các công sở quan trọng khác. Chính quyền tay sai Nhật ở Bắc bộ vội vã đầu hàng, Thị trưởng thành phố sẵn sàng trao lại chính quyền cho cách mạng. Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế; Ngày 25/8/1945, khởi nghĩa giành chính quyền tại Sài Gòn và các tỉnh lân cận; Đến ngày 28/8, địa phương cuối cùng trong cả nước giành được chính quyền.

Với những nhận định đúng đắn, những quyết tâm kịp thời và táo bạo về thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân làm nên Cách mạng tháng Tám thành công. Từ đây, chính quyền của bọn đế quốc, thực dân và tay sai thống trị hơn 80 năm đã bị đập tan, chế độ quân chủ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm bị xóa bỏ vĩnh viễn, chế độ thuộc địa nửa phong kiến sụp đổ. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước thật sự thuộc về tay nhân dân Việt Nam.

2. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời

Sau khi Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền cách mạng của nhân dân được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định rời Tân Trào về Hà Nội, tiếp tục chỉ đạo những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng và gấp rút chuẩn bị công việc khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Ngày 26/8 tại số nhà 48 Hàng Ngang, Người triệu tập và chủ tọa phiên họp đầu tiên với Ban thường vụ Trung ương Đảng để bàn những nhiệm vụ cấp bách trước mắt của Nhà nước cách mạng, quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại trong tình hình mới. Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Giải phóng dân tộc được cải tổ thành Chính phủ Lâm thời với sự tham gia của nhiều tầng lớp, giai cấp và đảng phái yêu nước; chuẩn bị bản Tuyên ngôn độc lập và tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân. Ngày ra mắt của Chính phủ Lâm thời cũng là ngày Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể Dân chủ Cộng hoà. Từ ngày 28/8, Người dành thời gian soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước nhân dân và toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(5). Tuyên ngôn thể hiện rõ thiện chí hòa bình và quyết tâm sắt đá của nhân dân ta trong việc bảo vệ nền độc lập mới giành lại được sau hơn 80 năm phải sống dưới ách cai trị của đế quốc xâm lược. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có sự thay đổi hoàn toàn về chất so với tất cả các kiểu nhà nước từng có trong lịch sử nước nhà, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó đã nói lên tính ưu việt của chế độ mới mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã đấu tranh giành được.

Như vậy, có thể khẳng định: bằng trí tuệ và nghị lực phi thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành công dân của nước Việt Nam tự do, độc lập.

Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam non trẻ đứng trước muôn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự... Các thế lực đế quốc và tay sai ráo riết chống lại Việt Minh và Đảng Cộng sản, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sáng suốt chọn lựa những đối sách đúng đắn, giải quyết kịp thời và có hiệu quả những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, để xây dựng thành công chính quyền nhà nước mới và tổ chức ổn định đời sống của các tầng lớp nhân dân sau cách mạng.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, ngày 03/9/1945 tại Bắc Bộ Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bao gồm: khắc phục nạn đói; nạn dốt; giáo dục nhân dân với việc thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết và đặc biệt là phải tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để sáng suốt lựa chọn đại biểu đủ đức, đủ tài cùng tham gia xây dựng kiến thiết đất nước.

Hiện thực hóa chủ trương trên, ngày 04/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động “Tuần lễ vàng”, khuyến khích người dân đóng góp tiền của cho ngân khố quốc gia. Phong trào này nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc. Tính tới thời điểm kết thúc “Tuần lễ vàng”, ngoài tiền mặt, cả nước đã quyên góp được 370 kg vàng cho Quỹ Độc lập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh cũng như chỉ đạo trực tiếp đối với từng nhiệm vụ cấp bách nói trên. Nhằm từng bước khắc phục nạn mất mùa đói kém, trong Thư gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! ... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”(6). Người chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa kháng chiến và cứu đói: “Chúng ta có hai nhiệm vụ cốt yếu, quan trọng như nhau: Kháng chiến và cứu đói. Phải kháng chiến để cứu đói, mà phải cứu đói mới kháng chiến được”(7). Cùng với việc đề cao tinh thần sẻ cơm nhường áo, Người đã gương mẫu thực hiện: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”(8).

Song hành với Chiến dịch diệt giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động Chiến dịch diệt giặc dốt với phương thức: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ... Vợ chưa biết thì chồng bảo,... cha mẹ không biết thì con bảo ...”(9). Do đó, chỉ trong thời gian ngắn, hơn hai triệu người đã biết đọc, biết viết.

Riêng với nhiệm vụ thực hiện Tổng tuyển cử trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm, chú trọng để bầu ra Quốc hội và phải có 1 bản Hiến pháp dân chủ. Theo Người, cần phải xây dựng một nhà nước theo tinh thần dân chủ, tiến bộ. Đó là kiểu nhà nước mà mọi quyền lực đều bắt nguồn từ nhân dân; bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều là đầy tớ, công bộc của dân; thừa hành ý chí của dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi hành vi xử sự của mình. Quan trọng nhất là nhà nước đó phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc bầu cử dân chủ.

Để chuẩn bị Tổng tuyển cử, nhiều sắc lệnh quan trọng của Chính phủ Lâm thời đã ra đời. Sắc lệnh số 14/SL ngày 8/9/1945 của Chính phủ Lâm thời về cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước; Sắc lệnh số 39/SL ngày 26/9/1945 của Chính phủ lâm thời về lập Ủy ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/10/1945 quy định thể lệ Tổng tuyển cử và ấn định ngày 23/12/1945 sẽ là ngày Tổng tuyển cử trong cả nước; Sắc lệnh số 76/SL ngày 18/12/1945 về việc hoãn Tổng tuyển cử đến ngày 6/1/1946, vv...

Cùng với việc ban hành các sắc lệnh liên quan đến công tác Tổng tuyển cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết bài về việc xây dựng một Chính phủ thật sự là công bộc của dân để nhân dân cùng biết rõ và tin tưởng: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(10) (bài Chính phủ là công bộc của dân đăng trên Báo Cứu Quốc, số 46, ngày 19/9/1945).

Bên cạnh việc triển khai những công việc hành chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo kêu gọi những người có tài có đức ra ứng cử, đóng góp sức lực cho đất nước: “chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng, có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”(11) trong bài Nhân tài và kiến quốc đăng Báo Cứu Quốc, số 91, ngày 14/11/1945. Đặc biệt, trong bài Ý nghĩa tổng tuyển cử đăng trên Báo Cứu Quốc số 130, ngày 31/12/1945. Người nêu rõ: “hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó”(12).

Đến sát ngày Tổng tuyển cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu đăng Báo Cứu Quốc ngày 05/01/1946, Người khẳng định: “Về mặt chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn” và kêu gọi: “Ngày mai, tất cả các bạn cử tri, đều phải nhớ đi bầu cử. Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”(13).

Lần đầu tiên trong lịch sử, mọi người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, đều được hưởng quyền bầu cử và ứng cử. Hưởng ứng Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, cuộc bầu cử được tiến hành sôi nổi trong cả nước. Ngày 06/01/1946, gần 95% tổng số cử tri trong cả nước đã đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những đại biểu của Mặt trận Việt Minh ra ứng cử được nhân dân tín nhiệm tuyệt đối. Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử ở Hà Nội và đã trúng cử với số phiếu cao nhất là 98,4%. Đây là lần đầu tiên, sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và hơn 80 năm dưới ách thống trị thực dân, người dân Việt Nam được tự do lựa chọn những người có đủ tài, đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong điều kiện “thù trong, giặc ngoài” đe đọa, nhưng nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử thành công, bầu ra Quốc hội. Quốc hội đã cử ra Chính phủ - một Chính phủ thực sự của nhân dân. Sự kiện trọng đại này đã đi vào lịch sử nước ta như một mốc son, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I ngày 09/11/1946, Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua đã thể hiện rõ những tư tưởng cơ bản của nhà nước mới - nhà nước độc lập, dân chủ. Đánh giá về Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do”(14).. Có thể thấy, ngay sau khi mới được thành lập, nhà nước ta đã có đầy đủ các cơ quan, ban, ngành, cùng hệ thống những quy định để thực thi quyền lợi của người dân theo pháp luật.

Như vậy, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Trên cương vị là người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(15). Và thực tế Người đã cống hiến trọn vẹn thời gian, trí tuệ, tâm sức của mình cho độc lập - tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân./.

Chú thích:

1.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.582

2.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.230

3.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.537

4.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.596

5.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.3

6.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.135

7.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.127

8.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.33

9.       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.40-41

10.     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.21

11.     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.114

12.     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.153

13.     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.166-167

14.     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.491

15.     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.187

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 19,465,586

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)