slider
Phát triển kinh tế số

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI NÔNG DÂN

29 Tháng 06 Năm 2010 / 7196 lượt xem
 
Nguyễn Thị Kim Liên
Phòng Tuyên truyền Giáo dục
 
 
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến nông dân - lực lượng to lớn và cũng chính là động lực của cách mạng.
Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ ra con đường duy nhất để giải phóng giai cấp nông dânlà con đường cách mạng vô sản, gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng nhân dân, trong đónông dân, đem lại ruộng đất cho nông dân. Ngày 10-10-1923, Đại hội Quốc tế Nông dân đầu tiên khai mạc tại Nga, trong Đại hội này, đã tiến hành bầu các cơ quan lãnh đạo của Quốc tế Nông dân. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thay mặt nông dân châu Á đã được bầu vào đoàn chủ tịch. Năm 1927, khi viết cuốn Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã coi công nhân và nông dân là đội quân chủ lực, là nòng cốt của cách mạng. Những năm sau đó, tuy hoạt động ở nước ngoài, Người đã viết nhiều thư và báo cáo cho Quốc tế nông dân biết tình hình của nông dân An Nam, Trung Quốc, Ấn Độ,…:  “ Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Người nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn…” (Tình cảnh nông dân An Nam (1)), “Nông dân Trung Quốc nghèo khổ là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây: 1. Dân số quá đông, còn đất đai thì không đủ để canh tác; 2. Phương tiện canh tác thô sơ; 3. Công nghiệp phát triển rất kém nên không thu hút được số dân dư thừa không có việc làm, do đó trộm cướp như rươi, chúng sống bám vào nông dân; 4. Chủ nghĩa quân phiệt là một dạng cướp bóc khác...” (Nông dân Trung Quốc (2)…
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được hội nghị thành lập Đảng thông qua (3/2/1930) đã đề ra chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, thu phục công nhân và nông dân, liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản bản xứ nhằm thực hiện nhiệm vụ đánh đổ chủ nghĩa Đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam được độc lập. Chánh cương vắn tắt của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ:
Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo.
Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo.
Mở mang công nghiệp và nông nghiệp (3).
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, mùa Xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu tiên này, Người đã sống với những người nông dân miền núi Cao Bằng và giác ngộ họ làm cách mạng. Đồng thời những người nông dân nghèo khổ và bị áp bức ấy đã chở che, giúp đỡ Người và các đồng chí của mình. Pác Bó, Cao Bằng đã vinh dự trở thành “đại bản doanh” đầu tiên của cách mạng nước ta. Tháng 8-1945, khi thời cơ tới, Đảng đã phát động tổng khởi nghĩa, nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông dân, công nhân là lực lượng chủ yếu cùng với toàn thể dân tộc làm nên cuộc cách mạng thần kỳ, giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân, giành lại độc lập sau hơn 80 năm bị thống trị.
Dưới chính quyền dân chủ nhân dân, vai trò của nông dân tiếp tục được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Tháng 11-1949, trong Thư gửi Hội nghị cán bộ Nông dân cứu quốc toàn quốc, Người viết: “Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thực sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”(4). Và Bác dặn dò:
- “Phải tổ chức nông dân thật chặt chẽ.
- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.
- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.
- Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ quốc”(5).
Năm 1951, Bác Hồ lại gửi thư cho nông dân toàn quốc. Trong thư, Bác còn viết bốn câu thơ ca ngợi, khuyến khích vai trò đi đầu của nông dân trong công cuộc xây dựng kinh tế nông nghiệp, đóng góp cho cuộc kháng chiến của dân tộc:
“Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sĩ
Hậu phương thi đua với tiền phương!”
Khẳng định vai trò to lớn của giai cấp nông dân để từ đó không ngừng chăm lo cho cuộc sống của họ, một lực lượng chiếm phần đông dân số Việt Nam. Đó không chỉ là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra cho đường lối cách mạng Việt Nam mà còn xuất phát từ chính tâm tư, tình cảm của Người.  Từ khi sinh ra cho đến tuổi học trò Bác sống ở làng quê Nghệ An giữa những người nghèo khổ một nắng hai sương ngoài đồng nên Người hiểu sâu sắc nỗi khổ, nỗi vất vả của người nông dân. Vì thế trong rất nhiều công việc để xây dựng chính quyền non trẻ vừa giành được sau cách mạng tháng Tám, Trung ương Đảng và Chính phủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra ngay nhiệm vụ phải chống 3 thứ giặc là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, trong đó giặc đói được xếp ở hàng đầu. Bởi nạn đói nǎm 1945 đã cướp đi cuộc sống của hơn 3 triệu người dân và làm cho hàng triệu triệu người khác vẫn lâm vào cảnh đói khổ. Trên cương vị Chủ tịch nước, Bác thường xuyên đi xuống các địa phương như Ninh Bình, Thái Bình, Hà Tây... để đôn đốc việc cứu đói, tổ chức tǎng gia sản xuất... Một lần trong cuộc họp, bàn chống đói, Bác nói: "Các chú biết không, người xưa nói "dân di thực vi thiên", có đồng chí tưởng Bác nói nhầm bèn chữa lại thưa Bác "dân dĩ thực vi tiên chứ ạ", Bác cười và giải thích: "Bác nói "Dân dĩ thực vi thiên" người xưa dạy "dân lấy cái ǎn làm trời", Đảng, Chính phủ phải lo cái ǎn cho dân không được để dân đói. Suốt trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, khi chưa có điều kiện giải quyết ruộng đất cho nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng, Chính phủ đã cố gắng và kịp thời ban hành nhiều chính sách nhằm từng bước mang lại quyền dân chủ cho nhân dân, trong đó có nông dân. Từ năm 1949 rồi tới năm 1953, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch cho phép, Đảng đã chủ trương phát động quần chúng tiến hành giảm tô, tiến tới cải cách ruộng đất triệt để thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”.
Tuy bận trǎm công nghìn việc Bác vẫn dành nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt, mà còn trực tiếp xuống tận các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Biết tin đê sông Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác trực tiếp xuống kiểm tra việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời cùng chính quyền địa phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khǎn. Nǎm 1955, nghe tin lũ lụt lớn ở Kiến An, gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân. Bác cho gọi đồng chí có trách nhiệm lên hỏi cụ thể. Bác hỏi, xã Hoà Nghĩa thiệt hại mấy người chết, nhà cừa trưởng học bệnh xá bị đổ bao nhiêu, khi nghe báo cáo con số thiệt hại cụ thể, Bác rất lo lắng và rơm rớm nước mắt, nhất là khi Bác được biết có nhiều gia đình chết người và trôi nhà cửa. Bác cǎn dặn phải có phương án tỷ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại. Người chỉ thị Tỉnh ủy phải trực tiếp chỉ đạo và dặn đi dặn lại "trước hết phải lo cái ǎn, nơi ở cho người bị nạn, tuyệt đối không để một người bị đói". Nǎm 1960 Bác về chống úng tại xã Hiệp Lực. Vừa đạp guồng nước, Bác nhắc nên lắp ổ bi vào trục để người đạp đỡ vất vả, mà nǎng suất cao hơn. Bác hỏi các cô thanh niên có biết hát đối đáp không, rồi Bác lẩy Kiều: "Trǎm nǎm trông cõi người ta, chống úng thắng lợi mới là người ngoan". Bác bảo các cô lẩy tiếp, các cô vì mải ngắm Bác nên không chuẩn bị không lẩy tiếp được chỉ biết vỗ tay, và xin mắc nợ với Bác. Bác nói: "Muốn lao động đỡ mệt và có sức mạnh, thanh niên nên tổ chức vǎn nghệ".         
        Những nǎm tháng cuối đời, tuy sức khoẻ yếu nhưng
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian làm việc với các đồng chí phụ trách nông nghiệp. Khi họp Bộ Chính trị hay trong các buổi làm việc về nông nghiệp, Người thường nhắc bản Điều lệ Hợp tác xã. Bác bảo công nhân có ngày kỷ niệm thì nông dân cũng phải có ngày kỷ niệm và nên lấy ngày ban hành Điều lệ Hợp tác xã làm ngày kỷ niệm cho nông dân. Bác dặn viết bản Điều lệ sao cho nông dân ít học cũng hiểu được. Đến tận những ngày tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sắp đi xa, ngày 17/8/1969 dù mệt nặng nhưng Người vẫn theo dõi mực nước các triền đê và căn dặn các địa phương phải quyết tâm giữ vững đê, bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất
Đồng chí Vũ Kỳ thư ký của Bác Hồ kể lại: Tết Ất Dậu 1969 - cái Tết cuối  cùng của Bác, chỉ hai hôm sau việc Bác nói đi chúc Tết, Bác đã hỏi: “Chú Kỳ! Các chú đã chuẩn bị cho Bác đi thăm những đâu? Mồng một Tết này, chúng ta xuất hành hướng nào?” Nghe đồng chí báo cáo là đang liên hệ với các nơi, mới chỉ gọi điện thăm dò (thực ra, đồng chí và các bác sĩ đang tìm cách trì hoãn để bảo đảm sức khoẻ cho Bác), Bác nói luôn: “Thôi, chú không phải thăm dò gì cả. Chú có nhớ Bác phát động Tết trồng cây năm nay là năm thứ mấy rồi không?” Khi nghe đồng chí Vũ Kỳ trả lời là năm thứ 10, Bác muốn đồng chí bố trí cho Bác đi trồng cây ở một địa phương có thành tích. Bác lại còn đề nghị ghé trại chăn nuôi của anh Hồ Giáo để chúc mừng năm mới và nếu thuận tiện sẽ đến một hợp tác xã nông nghiệp chúc Tết bà con nông dân. Và thế là, mặc dù sức khỏe của Bác không được tốt, nhưng Tết năm ấy, sau khi đi thăm bộ đội phòng không, không quân, khoảng 11 giờ trưa Bác đến xã Vật Lại, Ba Vì. Trồng cây đa xong, Bác vui vẻ cùng mọi người quây quần dưới tán bạch đàn. Bác rất vui, trò chuyện với bà con nông dân, với các cụ phụ lão và các cháu thiếu nhi. Bác dặn đồng chí nữ bí thư đảng ủy xã: “Phải dân chủ với dân. Phải để cho dân phê bình cán bộ, đảng viên” (6).
Thật là cảm động khi nhìn thấy hình ảnh Bác Hồ vui vẻ ngồi giữa những người nông dân như một cụ già trồng cây hiền từ ngồi cùng con cháu. Và chúng ta còn cảm động hơn nữa, khi biết lúc ấy trong bản Di chúc mà Người đã viết từ năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại muôn vàn tình thương yêu cho tất cả mọi người, trong đó có tình cảm sâu nặng với bà con nông dân: “NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(7). Người dự kiến miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các HTX nông nghiệp ''để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất''(8). Có thể nói, trong sự trọn vẹn của con người Chủ tịch Hồ Chí Minh, có sự trọn vẹn về tình cảm, quý trọng, tin tưởng và nhất mực thương yêu người nông dân - những người suốt đời chân lấm tay bùn, làm ra của cải nuôi sống xã hội, có nhiều đóng góp cho cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa 40 năm, cuộc chiến đấu xóa đói giảm nghèo đạt được một số thành tựu, chính sách đền ơn đáp nghĩa với những người có công với cách mạng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều Bác dạy "Đầu tiên là công việc đối với con người" vẫn luôn là lời nhắc nhở đối với các chính sách xã hội, các tổ chức quần chúng. Thực hiện ước nguyện của Người, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ bảy Quốc hội khoá VIII đã thông qua “Nghị quyết về việc miễn thuế nông nghiệp theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đảng và Nhà nước ta cũng đặt vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn lên tầm chiến lược đặc biệt quan trọng trong các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng” (9).
Đảng và Nhà nước ta đã chú ý đầu tư cho các công trình điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế ở nông thôn, việc thực hiện cơ chế dân chủ theo phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân sử dụng và khuyến khích khôi phục lại các giá trị văn hóa truyền thống ở các làng xã như các hương ước... đã làm cho nông thôn và người nông dân vừa được hưởng quyền dân chủ nhiều hơn, vừa tạo điều kiện và khuyến khích họ đóng góp có hiệu quả hơn cho công cuộc xây dựng vừa tạo điều kiện xây dựng đất nước theo đúng nghĩa “Dân giàu, nước mạnh”.
Ngày nay, đất nước ta đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Đời sống của những người nông dân đã đổi mới khác xưa, con em họ đã được học hành, có tri thức. Trong niềm vui lớn ấy, lòng chúng ta càng nhớ đến Bác kính yêu - Người xây dựng nên nước Việt Nam mới, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và của dân tộc, người suốt đời quan tâm và gần gũi với nông dân và nông thôn Việt Nam. Mãi mãi, Bác Hồ của chúng ta sẽ sống trong lòng dân tộc, trong trái tim của những người nông dân cần cù, chất phác, thuỷ chung, những người đã và đang được hưởng thành quả ruộng đất do Chủ tịch Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam mang lại./.
 


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.227
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.153
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.2.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.710
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.710
[6] Vũ Kỳ: Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, H.2005, tr.557-565
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.511.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.511.
[9] Nghị quyết 26 của BCH TW Đảng khoá X ngày 5/8/2008

Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nông dân huyện Mỹ Đức - Hà Tây chống hạn làm vụ mùa (6/1960)
 

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)