slider
Phát triển kinh tế số

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI THỦ ĐÔ HÀ NỘI

07 Tháng 09 Năm 2011 / 4242 lượt xem
Đỗ Hoàng Linh
PGĐ Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
 
Khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đã nhận xét vùng đất này: “ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây lại tiện đường nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắnh địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước…”. Từ đó trải qua chặng đường lịch sử gần 1000 năm tuổi với nhiều tên gọi Thăng Long (1010- 1397), Đông Đô (1397-1407; 1428 - 1430), Đông Quan (1407- 1427), Đông Kinh (1430 - 1789), Bắc Thành (1789- 1831) và Hà Nội từ 1831 đến nay. Vùng đất thiêng này là nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn, những biến cố thăng trầm của Thủ đô và đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Ban bí thư thảo luận về những công trình  lớn trong quy hoạch của thành phố Hà Nội và mở rộng ngoại thành (16/11/1959)Bắt đầu sự kiện trọng đại ngày 2-9-1945,Chính phủ Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân. Hà Nội tưng bừng màu đỏ. Một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ những rặng cây, đỏ những mặt hồ. Biểu ngữ bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa, Nga chăng khắp các đường phố, những dòng người đủ mọi màu sắc, từ khắp các ngả tuôn về vườn hoa Ba Đình. Hàng chục vạn nông dân từ ngoại thành kéo vào. Những chiến sĩ dân quân mang theo côn, kiếm, mã tấu. Trong hàng ngũ của các chị em phụ nữ nông thôn với những bộ quần áo ngày hội, có những người vấn khăn vàng, mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý. Những cụ già vẻ mặt nghiêm trang. Những cô gái Thủ đô hớn hở, áo màu rực rỡ. Các em thiếu nhi khua trống ếch rộn ràng, giậm chân bước đều, hát vang những bài ca cách mạng. Những nhà sư, những ông cố đạo cũng rời nơi tu hành, xuống đường, xếp thành đội ngũ đến dự ngày hội lớn của dân tộc. Gần 50 vạn người vui mừng kéo tới quảng trường Ba Đình dự ngày lễ lịch sử trọng đại.
14 giờ, Hồ Chí Minh- vị Chủ tịch của Chính phủ lâm thời nước VNDCCH, một cụ già gầy gò, trán cao, mắt sáng, râu thưa, mặc áo kaki cao cổ đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam DCCH.  Đọc đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi: Tôi nói, đồng bào nghe rõ không? Một triệu con người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm: “Co.o.ó!”. Từ giây phút đó, Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”(1).
Nhưng, quân đội nước ngoài dồn dập kéo vào nước ta dưới danh nghĩa quân Đồng  minh để tước vũ khí quân đội Nhật. Từ cuối tháng 8-1945, quân Tưởng bắt đầu vượt biên giới tiến vào nước ta, kéo theo bọn phản động tay sai để gây rối, phá hoại, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, dựng lên chính quyền tay sai của chúng. ở miền Nam, ngày 23-9, được sự tiếp tay của thực dân Anh, quân đội Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi tiến dần ra Nam Trung Bộ. Nếu kể cả quân Nhật chưa bị giải giáp, quân Tưởng, quân Anh và quân Pháp, con số lên gần 30 vạn! Cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế cực kỳ hiểm nghèo. Vào lỳc vận mệnh nước ta như đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt lựa chọn những vấn đề cấp bách nhất, giải quyết kịp thời, có hiệu quả đưa đất nước từng bước vượt qua tình thế khó khăn. Bên cạnh những giải pháp đối phó với nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm như phong trào hũ gạo cứu đói, tăng gia sản xuất, mở các lớp bình dân học vụ, lấy ngoại giao để bảo vệ hoà bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thông báo gặp gỡ rộng rãi các tầng lớp nhân dân Hà Nội và các tỉnh: ““…1. Gửi thơ nói trước, để tôi sắp thì giờ, rồi trả lời cho bà con, như vậy thì khỏi phải chờ đợi mất công. 2. Mỗi đoàn đại biểu, xin chớ quá 10 vị. 3. Mỗi lần tiếp chuyện, xin chớ quá 1 tiếng đồng hồ... “(2). Người cũng dành sự quan tâm, chỉ bảo đặc biệt đối với thanh niên Hà Nội: “…Nhiệm vụ của thanh niên như là: đi sâu vào quần chúng để san sẻ những thường thức về chính trị và quyền lợi công dân; ủng hộ Chính phủ không phải chỉ bằng những lời hoan hô suông thôi, mà cần phải một mặt giải thích cho dân chúng về những nỗ lực của Chính phủ, một mặt phê bình, giám đốc, tham gia ý kiến vào công việc của Chính phủ; chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự luyện ngay từ bây giờ để sau này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác việc trọng đại của nước nhà. Nói tóm lại, phải làm sao cho tổ chức thanh niên Hà Nội phải thành một khối thanh niên khuôn mẫu cho thanh niên toàn xứ và toàn quốc... “(3). Để chính trường quốc tế, nhất là các cường quốc lớn công nhận nền độc lập của ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu việc cải tổ Chính phủ lâm thời, đồng thời tiến hành chuẩn bị tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, từ đó lập ra một Chính phủ chính thức. Trong quá trình chuẩn bị bầu cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngỏ lời với đồng bào Hà Nội: “…Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi, mà quyết nghị tôi không phải ứng cử trong kỳ Tổng tuyển cử sắp tới. Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa. Tôi xin thành thực cảm tạ toàn thể đồng bào nam, phụ, lão, ấu khu vực ngoại thành Hà Nội….”(4).
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta được tổ chức trên cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử đại biểu Quốc hội với 98,4% số phiếu bầu. Để tranh thủ có thời gian chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt. Ngày 6-3-1946, lễ ký kết Hiệp định sơ bộ Pháp- Việt đã được tổ chức tại Hà Nội.
Hiệp định chưa ráo mực, thực dân Pháp đã đòi ta nộp vũ khí, đánh úp quân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xúc tiến những cuộc gặp gỡ với đại diện của nước Pháp để giải quyết những vấn đề quan trọng, Chính phủ Pháp mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp với tư cách thượng khách. Trước khi đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với đồng bào Thủ đô tại khu Việt Nam học xá: “…Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân. Vậy nên lần này, tôi xin hứa với đồng bào rằng: Tôi cùng anh em đại biểu sẽ gắng làm cho khỏi phụ lòng tin cậy của quốc dân...”(5).
Tại Pháp, Hội nghị Phôngtennơblô thất bại. Để cứu vãn tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký kết bản Tạm ước 14-9-1946. Chiều 21-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến ga Hàng Cỏ. Hàng vạn nhân dân Hà Nội đã tập trung tại đây hân hoan đón Người. Sau khi nói chuyện với toàn thể đồng bào và bộ đội, Người lên xe về Bắc Bộ Phủ giữa tiếng hò reo và cờ hoa của đồng bào Thủ đô. Tuy đã ký Tạm ước nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp vẫn ngông cuồng lấn tới, chúng liên tiếp gây ra nhiều vụ xung đột để tạo cớ phát động chiến tranh. Tại làng V¹n Phóc, Hà Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến lịch sử. 20 giờ 03 phút đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
Với đường lối, phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, thăm hỏi, động viên đồng bào, chiến sĩ Hà Nội. Người gửi thư cho các chiến sĩ cảm tử Thủ đô: “… Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”(6). Người khuyên nhủ các cháu nhi đồng công giáo Hà Đông: “…Bác khuyên các cháu:
- Biết giữ kỷ luật.
- Siêng học, siêng làm.
- Yêu Chúa, yêu nước”(7). Người chỉ dẫn cho Trung đoàn Thủ đô: “…Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng, đề phòng cẩn thận. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, ta phải liên lạc mật thiết với dân, phải làm cho dân mến, dân tin. Như thế nhất định thắng lợi...”(8). Người động viên đội du kích Hà Nội: “…Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và kinh tế của địch. Du kích Thủ đô và Vệ quốc quân cần phải thường khuấy rối quả tim của địch cho đến ngày tổng phản công. Du kích Thủ đô đã oanh liệt lập công lần đầu. Tôi chắc rằng từ nay du kích Thủ đô sẽ lập công nhiều hơn nữa, to hơn nữa...”(9). Người thăm hỏi đồng bào thành phố đang tạm bị địch chiếm: “Tôi và Chính phủ cùng toàn thể bộ đội, toàn thể đồng bào, luôn luôn nhớ đến anh em ruột thịt đang tranh đấu hết sức gay go ở vùng Hà Nội. Và dù gian nan khó nhọc mấy, cũng quyết đánh tan giặc Pháp để sớm giải phóng các đồng bào ra khỏi xiềng xích tàn bạo của lũ thực dân và bù nhìn...”(10). Người khen thưởng một nữ chiến sĩ du kích Sơn Tây: “…Tôi đặc biệt khen ngợi cháu Cúc đã tiêu diệt được 8 tên giặc để lập chiến công vẻ vang. .. Bác thưởng cháu 1 chiếc khăn tay”(11), haycác chiến sĩ địa phương Hà Đông: “..Bác gửi lời thân ái khen các chú và khuyên các chú học tập kinh nghiệm trong trận vừa qua, ra sức củng cố lực lượng của mình, để tranh lấy thắng lợi mới to hơn nữa, nhiều hơn nữa”(12). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương đã được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô. Người kịp thời chăm lo giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ Đảng viên về chính trị - tư tưởng, đạo đức - lối sống để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới: “…Suốt tám năm kháng chiến, các chú đã làm kiểu mẫu anh dũng, do đó mà chúng ta đã thắng lợi. Nay chúng ta về thành thị, các chú cũng phải làm kiểu mẫu đúng đắn, để tranh lấy thắng lợi trong hoà bình”(13). Người kêu gọi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng: “Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau, nhưng lòng Chính phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào.
Ngày nay do nhân dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, hoà bình đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào. Muôn dặm một nhà, lòng vui mừng khôn xiết kể!
Tôi xin chúc toàn thể đồng bào Hà Nội đoàn kết, phấn đấu và thắng lợi. Tôi riêng chúc các cụ phụ lão sống lâu và mạnh khoẻ để đôn đốc con cháu tiến tới “(14). Người căn dặn: “..Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự an ninh, làm cho Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khoẻ cả về vật chất và tinh thần”(15) và nhấn mạnh: “…Nói chung, Hà Nội là Thủ đô của cả nước ta. Nói riêng, Hà Nội là thành phố của tất cả những người dân Hà Nội. Nói tóm lại: mỗi một người dân Hà Nội, bất kỳ thuộc tầng lớp nào, bất kỳ làm công việc gì, đều cần phải cố gắng làm trọn nhiệm vụ của mình, đều cần phải góp phần vào công việc ổn định sinh hoạt của Thủ đô ta”(16).
Ngày 16-10, Người thân mật tiếp đoàn đại biểu các tầng lớp nhân dân Thủ đô đến chào mừng. Trong không khí vui mừng cảm động Người nói: “…Nhân dân Thủ đô ta có truyền thống cách mạng vẻ vang và lòng nồng nàn yêu nước, tôi chắc rằng đồng bào Thủ đô sẽ hăng hái phấn đấu làm cho mọi ngành hoạt động của Thủ đô ngày thêm phát triển, để làm gương mẫu, để dẫn đầu cho nhân dân cả nước ta trong công cuộc củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong khắp nước ta; để xây dựng một đời sống sung sướng, tươi đẹp, thái bình mãi mãi cho con cháu chúng ta”(17). Tuy bận rộn nhiều công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời giờ để tiếp đón và đi thăm hỏi các tầng lớp nhân dân, cán bộ, bộ đội, nhà máy, trường học tại Hà Nội. Người kêu gọi: “…Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đày tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”(18). Người giảng giải cho thanh niên, học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương: “ Ngày nay, ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ tương lai của nước nhà. Muốn xứng đáng vai trò người chủ, thì phải học tập. Bác khuyên lớp này thi đua với lớp khác, trường này thi đua với trường khác, trong việc học và hành, làm cho nền giáo dục của ta phát triển và tốt đẹp”(19). Người đi thăm và nói chuyện với cán bộ công nhân nhà máy điện Yên Phụ và nhà máy đèn Bờ Hồ: “…Trước chúng ta làm cho thực dân Pháp, nay chúng ta làm cho nhân dân. Nhà máy này bây giờ là của nhân dân, của Chính phủ, của các cô, các chú. Các cô, các chú là chủ thì phải gìn giữ nhà máy làm cho nó phát triển hơn nữa”(20). Người đến với các đơn vị tham gia duyệt binh mừng ngày Đảng, Chính phủ trở về Thủ đô: “…Hôm nay, Bác đến thăm các cô các chú có nghĩa là đến thăm toàn quân. Vì ở đây có đủ đại biểu các đơn vị. Khi các cô các chú về đơn vị, Bác gửi lời hỏi thăm và khuyến khích tất cả anh em, chị em cố gắng học tập”(21).
Tháng 12, Người chuyển về ở và làm việc tại một ngôi nhà nhỏ của công nhân điện trong khu vực Phủ Toàn quyền cũ (nay là Khu di tích Phủ Chủ tịch).
Sáng ngày 1-1-1955, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, hàng chục vạn nhân dân Hà Nội, thay mặt cho nhân dân cả nước, đã họp mít tinh chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ trở về Thủ đô.
Cùng Trung ương Đảng ta lãnh đạo củng cố miền Bắc về mọi mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trước hết vào khôi phục và nâng cao sản xuất nông nghiệp. Người phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm, kêu gọi cấy lúa xuân, trồng các loại hoa mầu ngắn ngày để cứu đói, vận động nhân dân giúp đỡ lẫn nhau, tiến hành trưng vay để giúp những nơi cấp bách...
Đi đôi với việc khôi phục kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng phát triển văn hoá, Người đi thăm các trường phổ thông và bổ túc văn hoá các lớp bình dân học vụ ở khu lao dộng Lương Yên, gửi thư khen các cụ cao tuổi vẫn đi học. Người đến thăm và nói chuyện tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc và chỉ rõ: giáo dục và kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau: Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được...Giáo dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Về nội dung và phương pháp dạy học, Người cũng căn dặn: Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của nhà nước. Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hoá. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo. Dưới sự lãnh đạo sát sao của Trung ương Đảng và Bác Hồ, với sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân ta cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá tiến triển tốt.
Chính trong giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị TƯ Đảng đặc biệt quan tâm đến việc quy hoạch và phát triển Thủ đô với mục đích: “Hà Nội phải làm thế nào để trở thành một Thủ đô xã hội chủ nghĩa”(22). Tuy lúc đó còn rất nhiều khó khăn về kinh tế, hạ tầng cơ sở nghèo nàn, lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật hạn chế, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Sau cuộc biến đổi lớn, việc khôi phục lại đời sống bình thường sẽ phức tạp, khó khăn. Nhưng Chính phủ có quyết tâm, toàn thể đồng bào Hà Nội đồng tâm nhất trí góp sức với Chính phủ, thì chúng ta nhất định vượt được mọi khó khăn và đạt được mục đích chung: làm cho Hà Nội thành một Thủ đô yên ổn, tươi vui và phồn thịnh” (23). Danh từ Hà Nội hàm ý chỉ một vùng đất bên trong sông Hồng (hay sông Nhị), vì nằm ở giữa lưu vực sông Hồng, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị trước hết tập trung bàn thảo về quy hoạch sông Hồng và thuỷ điện vào các kỳ họp tháng 5/1959, tháng 9/1959, tháng 5/1962. Ngày 29/8/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội nghị Bộ Chính trị bàn về mở rộng thành phố Hà Nội theo kế hoạch dài hạn. Phát biểu khai mạc Hội nghị, Người nêu rõ: “Mở rộng thành phố phải căn cứ vào thiên thời (mưa, gió, nắng…), địa lợi (địa chất, sông hồ…) và nhân hoà (lợi ích của nhân dân, của Chính phủ…). Công tác quy hoạch thành phố phải hợp lý, bảo đảm được cả về kinh tế, mỹ quan và quốc phòng, phải có kế hoạch vận động quần chúng tham gia, có ban phụ trách để chịu trách nhiệm, tránh lối làm đại khái, lãng phí…”(24). Ngày 12/9/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Bộ Chính trị bàn về quy hoạch Thủ đô Hà Nội. Người nhấn mạnh vấn đề tổ chức thực hiện trong xây dựng phải có quy hoạch, đồng bộ, làm từng bước và chú ý cả nội và ngoại thành Hà Nội. Người chỉ rõ yêu cầu quy hoạch là thành phố phải có nhiều cây xanh, đường phải thẳng, có đường trung tâm buôn bán, hệ thống cống ngầm phải đảm bảo vệ sinh, hệ thống đường xe điện, xe lửa phải bố trí sao cho phù hợp (25). Ngày 16/11/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Ban bí thư thảo luận về những công trình lớn trong quy hoạch của thành phố Hà Nội và mở rộng ngoại thành. Người căn dặn trong thiết kế phải đồng bộ (đường sá, hệ thống thoát nước, lưới điện…), tránh cản trở sự đi lại của nhân dân; phải có quy hoạch trước, tránh làm rồi lại phá đi và phải thực hiện nhanh-nhiều-tốt-rẻ. Người cũng lưu ý việc phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em trong công việc trên(26). Không chỉ quan tâm sâu sát với những dự án quy hoạch lớn, vĩ mô mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý tới những công trình trọng điểm quan trọng. Ví như trong hai  ngày họp Bộ Chính trị 8-9/4/1960 bàn về phương án thiết kế, xây dựng trụ sở Quốc hội, Người đã góp ý một số vấn đề về hướng nhà Quốc hội. Người phát biểu cảm ơn các chuyên gia và nêu một số ý kiến khi tiến hành xây dựng phải cần kiệm, tránh lãng phí nguyên vật liệu, giúp đỡ lẫn nhau giữa chuyên gia và cán bộ Việt Nam(27).Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Thủ tướng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Côxưghim cùng phu nhân tại Phủ chủ tịch (6/2/1965)
Từ năm 1964, đế quốc Mỹ bắt đầu leo thang chiến tranh, ném bom phá hoại miền Bắc nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Để chi viện có hiệu quả cho miền Nam, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời lãnh đạo chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, tăng cường lực lượng quốc phòng, chăm lo công tác giáo dục, văn hoá, giải quyết khó khăn của nhân dân cho phù hợp với tình hình mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhắc các cấp, các ngành phải giúp đỡ đồng bào và các cháu đi sơ tán; nhắc “các cơ quan lương thực, mậu dịch, y tế, giáo dục cần chú ý theo sát đề tuỳ điều kiện phục vụ cho tốt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi quà cho các cháu nhà trẻ Nhà máy da Thuỵ Khuê và cho các cháu trại trẻ Xí nghiệp Giày vải. Người cũng gửi thư cho các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Người dặn: Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Người luôn theo sát tình hình chiến sự, động viên, khen thưởng kịp thời các chiến sĩ bộ đội thuộc các binh chủng phòng không không quân, dân quân tự vệ đóng trên địa bàn Thủ đô. Người còn dùng tìên nhuận bút trong sổ tiết kiệm của mình mua nước uống cho các chiến sĩ phòng không trực chiến. Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, trong bốn năm (1965-1968) Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ác liệt, quân và dân Hà Nội vẫn vững vàng trong tuyến lửa, kiên cường đánh trả những cuộc không kích của kẻ thù, bắn rơi hàng trăm máy bay, bắt sống nhiều giặc lái,
Cùng với hoạt động ngoại giao Nhà nước, trong khu vực Phủ Chủ tịch và tại nhà sàn của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đón tiếp nhiều tổ chức quốc tế, nhiều nhân sĩ, trí thức, chính khách, nhà văn hoá, phóng viên nhà báo có tên tuổi để tranh thủ tình cảm của nhân dân thế giới ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta chống Mỹ xâm lược.
Những năm tuổi cao, sức khoẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoá, yếu đi nhiều. Từ ngày 10/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Tài liệu tuyệt đối bí mật, ?ó là tập bản thảo do chính Người viết tay và đánh máy chưa có đầu đề mà sau này gọi  đúng ý nghĩa của nó là bản Di chúc. Tết Kỷ Dậu 1969, Người đi thăm một số đơn vị, cơ sở và về huyện Ba Vì, trồng cây đa cuối cùng trên đồi Vật Lại. Ngày 10/5/1969, từ 9giờ 30phút đến 10giờ 30phút, tại ngôi nhà sàn, Người lấy phong bì đựng tập tài liệu “bí mật” ra xem lại lần cuối. Tháng 8/1969, sức khoẻ của Bác đã giảm sút nhiều. Từ lúc Người lâm bệnh, Trung ương Đảng đã tập trung mọi khả năng và phương tiện để săn sóc sức khoẻ của Người. Nhân dân Hà Nội tập trung chờ đợi trong lo lắng quanh loa truyền thanh ở hồ Hoàn Kiếm, trước cổng Phủ Chủ tịch và trên quảng trường Ba Đình để dõi theo tin tức về tình hình sức khoẻ của Người. Nhưng do tuổi cao bệnh nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời lúc 9h 47 phút, ngày 2-9-1969 thọ 79 tuổi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân thắm thiết, đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung, cũng như Đảng bộ, nhân dân Hà Nội nói riêng đang hướng tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, quyết vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người để đưa sự nghiệp cách mạng mà Người để lại vươn tới những tầm cao mới, thực hiện mong muốn cuối cùng của Người là "đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"./
 
Chú thích:
(1),(2),(3),(4),(5): Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, tập IV, tr.2, tr.10, tr.29, tr.116, tr.240
(6),(7),(8),(9),(10),(11): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập V, tr.35, tr.125, tr.391, tr.527, tr.589, tr.672
(12): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập VI, tr.264
(13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập IX, tr.420
(22): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập IX, tr.420
(23): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập VII, tr.360
(24),25,26,27: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, H.1996, tập VII, tr.136, tr.359, tr.391, tr.476-77

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)