Đảng ta là một đảng cầm quyền
19 Tháng 09 Năm 2011 / 23625 lượt xem
PGS. TS Bùi Đình Phong
Lý luận về đảng cầm quyền đã được lãnh tụ V.I. Lênin đề cập từ sớm. Trong nhiều năm qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm tới năng lực của đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong những bài nói, bài viết từ sau Cách mạng Tháng Tám, đặc biệt từ năm 1947, khi bàn tới sửa đổi lối làm việc, đã nhấn mạnh tới vai trò và trách nhiệm của đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Trong Di chúc, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, khi đề cập tới phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới, có đề cập “nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách; tổ chức thực hiện sáng tạo, có hiệu quả đường lối”[1] (Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội cũng như văn kiện các hội nghị Trung ương, Đảng ta đề cập tới cụm từ “nâng cao năng lực cầm quyền “). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006) nhấn mạnh việc “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng”[2].
Những vấn đề nêu trên cho thấy, vấn đề Đảng cầm quyền có ý nghĩa to lớn cả hai mặt lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng. ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn xa trông rộng về vấn đề này, nhưng đến Đại hội lần thứ X của Đảng, tức là sau 76 năm, chúng ta mới bắt đầu trở lại tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền. Từ đây đến khi có những công trình tầm cỡ nghiên cứu vấn đề đảng cầm quyền ở Việt Nam còn phải tốn không ít thời gian, công sức, giấy mực. Bài viết này góp một suy nghĩ nhỏ bàn về đảng cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, quan niệm chung về đảng cầm quyền, đó là thời kỳ mà một đảng đã nắm được chính quyền và sử dụng chính quyền đó như một công cụ bạo lực để đạt được mục tiêu chính trị mà đảng đó là người đại diện.
Hầu hết nhiều nước trên thế giới quan niệm đảng cầm quyền là đảng nắm được đa số ghế trong nghị viện và có quyền lập chính phủ. Nếu đảng nào nắm được 2/3 số ghế trong nghị viện thì có quyền sửa đổi hiến pháp. Trong trường hợp không có đảng nào chiếm được đa số ghế trong nghị viện thì thành lập một chính phủ liên minh nhiều đảng.
Như vậy, đảng cầm quyền trên thế giới gắn với thể chế đảng nghị viện, liên quan tới việc nắm cơ quan hành pháp.
Hồ Chí Minh , như đã nói ở trên, trong những bài viết sau 1945 đã chứa đựng tinh thần về đảng cầm quyền. Đặc biệt là các bài viết: “Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ” (1-3-1947); “Thư gửi các đồng chí Trung Bộ” (1947); “Sửa đổi lối làm việc” (10-1947); v.v.. Tinh thần đó nhất quán và xuyên suốt đến khi Người viết Di chúc(1965-1969).
Hồ Chí Minh không hề đưa ra một định nghĩa nào về đảng cầm quyền, hay Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Nhưng từ trong di sản Hồ Chí Minh, chúng ta có thể hiểu quan niệm của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền như sau: Thông qua việc nắm quyền, Đảng tiếp tục thực hiện sứ mệnh lãnh đạo của mình- lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị- để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng đã ghi trên lá cờ của Đảng từ khi ra đời. ở đây, cần nhận thức rõ đảng cầm quyền là tiếp tục vai trò lãnh đạo đất nước để đạt được mục tiêu, lý tưởng cách mạng trong điều kiện mới khi đã có chính quyền trong tay.
Nghiên cứu kỹ các bài viết của Hồ Chí Minh thấy rõ Người rất quan tâm tới Đảng ta từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền. Tại sao như vậy?
Thứ nhất, khi trở thành đảng cầm quyền thì mọi sai, đúng về đường lối của Đảng; tốt, xấu về phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ, đảng viên không chỉ bó hẹp trong nội bộ Đảng, mà trở thành hiện tượng của xã hội, tác động mạnh tới xã hội, gắn chặt với vận mệnh của đất nước. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, hạt nhân của hệ thống chính trị, là trí tuệ, danh dự, lương tâm của giai cấp, dân tộc, Tổ quốc, là tấm gương của xã hội. Gương sáng thì nhân dân soi, gương mờ thì dân quay lưng.
Hai là, Đảng cầm quyền thì tạo ra nhiều thuận lợi cho Đảng thực thi vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng đồng thời cũng thuận lợi cho nhiều thói hư tật xấu nảy sinh. Từ khi Đảng lãnh đạo trong điều kiện nắm chính quyền trong tay, hàng trăm tật bệnh nhanh chóng xuất hiện, đó là “bán thứ vị, bán ngôi thứ”[3]; là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, óc hẹp hòi, thiếu kỷ luật, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè kéo cánh, bệnh xu nịnh a dua, v.v.. Như vậy, đảng cầm quyền, bên cạnh những thuận lợi, Đảng sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, đó chính là những nguy cơ của đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh quan tâm tới đảng cầm quyền như thế nào?
Một là, Người quan tâm tới tới bước nhảy vọt của tình hình, bước chuyển biến cách mạng của Đảng. Cùng một bộ tham mưu của giai cấp công nhân, trước khi cầm quyền thì nhiệm vụ to nhất là lãnh đạo toàn dân xóa bỏ chính quyền cũ của bọn thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Sau khi nắm quyền thì nhiệm vụ của Đảng là lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Mà tư duy xóa bỏ và tư duy xây dựng là hoàn toàn khác nhau. Lênin đã dạy: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Hồ Chí Minh nói: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”[4]. Trong Di chúc, Người coi cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi “là một chiến đấu khổng lồ”.
Tư duy của đảng cầm quyền trước hết phải nhận thức đảng cầm quyền nhưng dân là chủ; đảng cầm quyền để dân làm chủ; đảng cầm quyền lấy dân làm gốc. Đảng cầm quyền để lãnh đạo toàn dân đạt được mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nhưng ra đời từ trong lòng dân tộc; Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, Đảng của toàn dân. Đảng cầm quyền phải sửa ngay lối làm việc, từ cách ( phương thức) lãnh đạo, vấn đề cán bộ, tư cách và đạo đức cách mạng đến công tác kiểm tra, giám sát, công tác tư tưởng, v.v..
Hai là, Hồ Chí Minh quan tâm tới vị trí của Đảng trong hệ thống chính trị. Đảng là một thành tố của hệ thống chính trị, nhưng lại là thành tố lãnh đạo. Là lãnh đạo thì phải xứng danh lãnh đạo, tức vạch đường chỉ lối với tầm trí tuệ cao của Đảng. Là một thành tố của hệ thống chính trị, Đảng không thể và không được phép đứng ngoài, đứng trên Hiến pháp và pháp luật, mà phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên không được “vác mặt làm quan cách mạng”, “đè đầu cưỡi cổ dân”, phớt lờ kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, quyền lực của đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền có quyền lực chính trị, đó là quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng viên, cán bộ trong điều kiện đảng cầm quyền- so với nhân dân- dù ít dù nhiều đều có quyền lực, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Điều quan trọng nhất là việc trao quyền và thái độ của Đảng và cán bộ đảng viên đối với quyền lực. Quyền lực nếu được trao vào người có đức, có trí thì sẽ phát huy được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Ngược lại, quyền lực nếu trao vào người thiếu đức, kém trí, thiếu tâm, dưới tầm thì quyền lực sẽ bị thao túng, phục vụ cho lợi ích cá nhân; người cầm quyền nhanh chóng bị tha hóa, biến chất. Bởi vì, thông thường, người thiếu trí tuệ thì rất hay lạm dụng quyền lực, núp bóng quyền lực, lãnh đạo bằng quyền lực, chứ không phải lãnh đạo bằng cảm hóa, thuyết phục qua trí tuệ. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”[5]. Đảng cầm quyền phải thật sự là một Đảng đạo đức, văn minh.
Bốn là, Đảng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội. Đây là vấn đề lớn, quan trọng nhất trong điều kiện đảng cầm quyền, vì liên quan tới cách (phương thức) lãnh đạo của Đảng. Tổng quát thì Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Nhà nước. Mặt khác, Đảng phải coi trọng chính quyền, coi trọng các tổ chức của Mặt trận, thực hiện dân chủ và công khai. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chính là giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước. Hiệu lực quản lý của Nhà nước lại chính là thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo chính quyền qua việc xây dựng bộ máy Nhà nước ngày càng hiện đại, hiệu quả, dân chủ. Muốn vậy, điều quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước trong sạch, vững mạnh, không và kiên quyết chống tiêu cực dưới các biểu hiện khác nhau, đặc biệt là quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí. Cán bộ và chính quyền trong điều kiện đảng cầm quyền phải là công bộc thật sự của dân, “sao cho được lòng dân”, không được cửa quyền, xa rời nhân dân. Bởi vì, “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[6].
Năm là, Đảng cầm quyền phải chống thói “kiêu ngạo cộng sản” như cách nói của Lênin. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, duy nhất lãnh đạo cách mạng, bệnh kiêu ngạo dễ nảy sinh. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc tới bệnh kiêu ngạo. Đó là thói “tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”. Bệnh kiêu ngạo dễ dẫn đến mất dân chủ, xa dân, sai về đường lối, hư hỏng về đạo đức. Tự mãn, tự túc là bó mình lại, không cho mình tiến bộ thêm.
Sáu là, Đảng cầm quyền thì cán bộ, đảng viên phải thật sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Ngược lại với thật sự là giả dối, là bản chất đạo đức của giai cấp bóc lột. Trong điều kiện đảng cầm quyền, đảng viên phải đi trước để làng nước theo sau. Có hai điều đi trước quan trọng nhất là đạo đức và năng lực trí tuệ. Đối với nhân dân ta, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Gắn với cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong giai đoạn hiện nay, là phải thực hiện 4 xây: Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; ý thức tổ chức kỷ luật; ý thức trách nhiệm; ý thức phục vụ nhân dân. Và 4 chống: chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí, quan liêu.
Vấn đề đảng cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lý luận và thực tiễn trước đây, mà đang là vấn đề cần kíp hiện nay, cần được tiếp tục nghiên cứu sâu rộng hơn để phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
BĐP
Chú thich:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 279.
(2) Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986- 2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.171.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 54.
(4) Hồ Chí Minh, Sdd, t.10, tr.4.
(5) Hồ Chí Minh, Sdd, t. 5, tr. 641.
(6) Hồ Chí Minh, Sdd, t.5, tr.286.