Hồ Chí Minh từ Quảng Tây đến Cao Bằng (phần 2)
Đỗ Hoàng Linh
PGĐ Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
3, Người Cố vấn giúp đỡ kế hoạch tổ chức của VNCMĐMH:
Trong thời gian được ra khỏi nhà tù nhưng vẫn bị quản thúc, Hồ Chí Minh viết một bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán lên mép trắng của tờ Quảng Tây nhật báo: Núi ấp ôm mây, mây ấp núi- Lòng sông gương sáng bụi không mờ- Bồi hồi dạo bước Tây phong lĩnh- Trong lại trời Nam nhớ bạn xưa và gửi kèm với một bức thư về nước báo tin, dặn dò anh em ở nhà một số công việc cụ thể phải làm trước mắt. Các bức thư sau đó cũng đều được chuyển về nước theo cùng một cách: chữ được viết bằng nước cơm lên rìa trắng các tờ báo, khi đọc bôi cồn iốt vào thì chữ nổi lên! Lúc này, bởi tổ chức VNCMĐMH vẫn chia rẽ, bè phái, bê bối nên Trương Phát Khuê phải kiêm chức Đại diện và Hầu Chí Minh làm phó đại diện Hội. Trương Phát Khuê đã yêu cầu Hồ Chí Minh hợp tác với VNCMĐMH với danh nghĩa là Phó Chủ tịch! Thoạt đầu, Hồ Chí Minh từ chối tham gia hoạt động của Hội: “Tôi chờ đợi tự do đã bao lâu rồi, giờ đây tôi không có quyền bỏ phí một ngày. Trong nước còn bao nhiêu công việc cấp bách và quan trọng đang chờ tôi. Còn ở đây, sẽ có những đại biểu khác của chúng tôi làm việc thay tôi”(5). Nhưng Trương Phát Khuê đã gửi cho Người một bức thư nhắc lại yêu cầu và coi như đó là điều kiện để trả tự do hoàn toàn. Sau khi cân nhắc, Hồ Chí Minh đồng ý tương kế tựu kế như nhà sử học King Cheng nhận định: “Hồ Chí Minh biết rõ Trương Phát Khuê đang lợi dụng ông, nhưng ông cũng biết cách lợi dụng lại tướng Khuê. Kết quả thế nào, thời gian sẽ trả lời, nhưng rõ ràng Hồ Chí Minh thành công trong việc thay đổi địa vị từ một người tù sang vai trò lãnh đạo của một tổ chức”(6). Ngày 23/11/1943, Chủ tịch
(Hồ Chí Minh, sau khi được tự do dẫn 18 thanh niên yêu nước do Người lựa chọn từ Liễu Châu qua Nam Ninh đến Long Châu, Trung Quốc để về Cao Bằng, tháng 8/1944)
Nguyễn Hải Thần phải cử hai uỷ viên quân sự đặc biệt của Hội là Diệp Thuỵ Đình và Trung Tú Nghị đến Cục Chính trị chiến khu IV đón Hồ Chí Minh về trụ sở Tổng bộ VNCMĐMH tại đường Ngư Phong ở Liễu Châu để chính thức nhận công tác. Liễu Châu là một thành phố nhiều núi đá vôi, đất xấu, dân nghèo, nhưng do giao thông đưòng bộ, đường sắt thuận tiện nên đồng bào các vùng chiến sự và vùng bị Nhật chiếm đóng đều đổ về đây tản cư. Nơi ở của Người là căn phòng nhỏ trên tầng hai trong ngôi nhà tám mái dựng bên đồi kề sông Liễu Giang được gọi là: Khách sạn
Đầu tháng 3/1944, Hội nghị trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc của VNCMĐMH do Trương Phát Khuê triệu tập khai mạc tại Liễu Châu. Hồ Chí Minh được mời tham gia với danh nghĩa “thiết kế uỷ viên”(tức là cố vấn giúp đỡ kế hoạch tổ chức). Khi thảo luận, một số người không đồng ý cho các tổ chức thuộc Việt Minh tham dự. Hồ Chí Minh đã bàn với các đại biểu Việt Minh, đề nghị cải tổ lại Ban chấp hành của VNCMĐMH và nên đổi tên đại hội này thành: Đại hội đại biểu các đoàn thể cách mạng hải ngoại (gọi tắt là Đại hội cách mạng hải ngoại). Trương Phát Khuê tán thành và uỷ thác cho Hồ Chí Minh khởi thảo kế hoạch triệu tập đại hội. Bản kế hoạch được thảo ra rất nhanh, sau đó mấy ngày, Trương Phát Khuê mở tiệc trà, giới thiệu và công khai ủng hộ kế hoạch này khiến phe phái phản đối đành phải nghe theo. Từ ngày 25 đến ngày 28/3/1944, Đại hội cách mạng hải ngoại được tổ chức tại Bộ tư lệnh chiến khu IV. Danh sách đăng ký có 15 đại biểu nhưng chỉ có mặt 12. Đại biểu của VNCMĐMH vắng 3 người là Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, có mặt 4 người là: Trương Bội Công, Nông Kính Du, Trần Báo, Trương Trung Phụng; Đại biểu phân hội Việt Nam HHCXLQT là Hồ Chí Minh; Đại biểu đảng Đại Việt là Nguyễn Tường Tam; Đại biểu hội giải phóng Vân Nam là Lê Tùng Sơn; Đại biểu Biện sự xứ giải phóng đồng minh là Hồ Đức Thành; Đại biểu học sinh Nam Ninh và Đại Kiều là Nguyễn Thành Đồng, Nguyễn Văn Giảng, Trần Đình Xuyên, Lê Duy Thịnh (không có các đại biểu Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp tham dự như một số sách sử nước ngoài đã viết). Sau bài khai mạc của Trương Bội Công, có 5 đại biểu đọc tham luận, trong đó nổi bật là bài của Hồ Chí Minh vì thông qua Báo cáo về tình hình các đảng phái trong nước, Người vừa tóm tắt được lịch sử đấu tranh chống đế quốc của nhân dân Việt Nam, vừa lên án tội ác của bọn quân phiệt, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản trước mặt đại diện chính quyền Quốc dân đảng vốn quyết liệt chống Cộng sản. Đại hội thông qua hai nghị quyết và bầu lại Ban chấp hành, Ban kiểm tra. Hồ Chí Minh và Lê Tùng Sơn được bầu làm Uỷ viên BCH.
4, Trở về Tổ quốc:
Tháng 5/1944, qua thu thập kinh nghiệm thực tế trong cuộc kháng chiến chống Nhật ở Trung Quốc và tài liệu nghiên cứu được, Hồ Chí Minh đã viết một cuốn sách nhỏ nhan đề: Chiến thuật du kích gồm 13 chương, giới thiệu tương đối toàn diện về chiến tranh du kích. Tháng 6/1944, tổ chức Đảng trong nước cử người sang Liễu Châu báo cáo tình hình và đề nghị Hồ Chí Minh về nước lãnh đạo cách mạng. Tháng 7/1944, Hồ Chí Minh gửi Chiến khu IV “Kế hoạch về Việt Nam công tác” với bốn mục đích: Tuyên truyền sự ủng hộ Việt Nam của Chính phủ Trung Quốc để giải phóng dân tộc; Phát triển tổ chức VNCMĐMH; Chuẩn bị đón quân Đồng Minh vào Việt Nam giải giáp Nhật; Giành độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Người còn đề xuất một số công việc cần chuẩn bị kỹ trước khi quân Đồng Minh vào Việt Nam, một trong những việc cần làm ngay là phải đưa một số hội viên cốt cán bí mật về nước để thăm dò tình hình thực tế, triển khai công tác, rút kinh nghiệm nên cần phải có kinh phí đi đường, súng đạn, thuốc men. Kế hoạch Người đề ra hoàn toàn phù hợp với ý đồ của Chiến khu IV muốn giúp cho VNCMĐMH, do đó Trương Phát Khuê thỉnh thị cấp trên rồi đồng ý để Hồ Chí Minh về Việt Nam, Sau một thời gian vừa chuẩn bị, vừa bị trì hoãn vì nguyên nhân khách quan, ngày 9/8/1944, Hồ Chí Minh chính thức được tự do và được cấp giấy phép trở về Việt Nam, chứng minh thư do Trương Phát Khuê ký, cùng đi có 18 thanh niên yêu nước do Người lựa chọn là: Dương Văn Lộc, Vi Văn Tôn, Hoàng Quang Trao, Hoàng Kim Liên, Phạm Văn Minh, Hoàng Sĩ Vịnh, Nông Văn Mưu, Hoàng Gia Tiến, Trương Hữu Chi, Lê Nguyên, Hoàng Nhân, Nông Kim Thanh, Hoàng Thanh Thuỷ, Hà Hiền Minh, Lê Văn Tiến, Dương Văn Lễ, Đỗ Trọng Viên, Đỗ Lạc. Đoàn về nước công tác tới Long Châu, trú tạm ở Văn phòng 1 của Hội đồng minh giải phóng dân tộc Việt Nam đặt tại Đức Hưng Xa y điếm, số 82 đường Đông Quan Ngoại. Sau đó, qua những anh em quen biết cũ như Nông Kỳ Chấn, Phan Toàn Trân, Hồ Chí Minh và đoàn đến khu Hạ Đống và được bố trí thu xếp vào ở trong các phòng học của trường tiểu học vì thời gian đó học sinh đang được nghỉ hè. Trong thời gian 20 ngày ở Long Châu, Hồ Chí Minh gặp lại Tăng Thiên Tiết, lúc này đang giữ chức Phó chủ nhiệm sở chỉ huy Tĩnh Tây kiêm Chủ nhiệm phòng đốc sát quân cảnh Long Châu, vị này đã cấp cho Hồ Chí Minh một giấy thông hành có đóng dấu của quân cảnh Long Châu. Từ khi rời Liễu Châu, đoàn vẫn mặc quân phục do Chiến khu IV cấp nên trở về nước sẽ không tiện, vì thế Nông Kỳ Chấn đã thương lượng với bà con trong làng thu gom được 19 bộ quần áo kiểu cũ mà mọi người vẫn thường mặc để cho đoàn thay. Cuối tháng 8/1944, đoàn rời Hạ Đống đi Tĩnh Tây, qua Bình Mãng thuộc huyện Nà Pha để về Việt
Chú thích:
5, Đồng chí Hồ Chí Minh. Nxb Thanh Niên 2000, trang 337
6, King Cheng-
7, Bác Hồ ở Hoa
8, Chuyện kể về Bác Hồ. Nxb Nghệ An 2000, Tập I, trang 111
9, Những ngày sống gần Bác. Nxb Lao Động 2001, trang 97