NHỚ MÃI LỜI BÁC DẶN: “CẦN PHẢI GIỮ GÌN SỰ ĐOÀN KẾT NHẤT TRÍ CỦA ĐẢNG NHƯ GIỮ GÌN CON NGƯƠI CỦA MẮT MÌNH”
05 Tháng 11 Năm 2009 / 9577 lượt xem
Th.S Vũ Thị Kim Yến
Phòng Sưu tầm-Kiểm kê-Tư liệu
Bốn mươi năm trước, ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của toàn thể nhân dân Việt Nam qua đời. Trong thời khắc đau buồn của lịch sử dân tộc, khi mà “người tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” ấy, hàng chục vạn đồng bào tụ họp trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, cùng hàng chục triệu người Việt Nam từ mọi phương trời, miền Bắc và miền Nam, trong và ngoài nước thành kính đón nhận bản Di chúc Người để lại. Bản Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết từ năm 1965, khi Người đã tự cảm nhận được sức khỏe của mình giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75 Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo “Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm mấy tháng nữa”. Từ dự cảm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân, cho Đảng và bạn bè gần xa.
Điều Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất, suy nghĩ nhiều nhất chính là vấn đề xây dựng Đảng. Cho nên, phần nói về Đảng là lời dặn đầu tiên trong Di chúc của Người. Trong bản Di chúc năm 1965, Người viết: “Trước hết nói về Đảng” và gạch dưới 5 chữ này. Ngày 11-5-1968, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trọn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Những dòng này Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bằng mực đỏ. Nhìn chữ viết trong bút tích của Người mà lòng chúng ta dâng lên một niềm cảm xúc lớn lao. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người đã dành cả cuộc đời mình chăm lo cho sự lớn mạnh của Đảng về cả thể chất và tinh thần. Vì Người biết sự lớn mạnh của Đảng cũng chính là sự lớn mạnh của cách mạng, của dân tộc.
1.“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, Người đã đi đến kết luận: “Sử ta dạy cho ta bài học này. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”(1).
Quả đúng như vậy, lịch sử dân tộc đã chứng minh, những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn dân. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông hồi thế kỷ XIII của nhà Trần là một minh chứng rõ nét. Đứng trước đạo quân viễn chinh vốn bị coi là sức mạnh ma quỷ huỷ diệt loài người, việc đầu tiên mà vương triều Trần tiến hành là xây dựng một chính quyền phong kiến tập quyền đoàn kết: đoàn kết vương triều, đoàn kết toàn dân tộc, một chính quyền thân dân và gần dân. Đó chính là cội nguồn sức mạnh để liên tiếp trong suốt 30 năm, 3 lần nhà Trần lãnh đạo nhân dân kháng chiến là 3 lần chiến thắng vang dội. Trái lại, những cuộc kháng chiến không phát huy được sức chiến đấu của toàn dân thì dù cho quân đội đông, vũ khí tốt, thành lũy kiên cố vẫn thất bại. Thất bại của nhà Hồ đầu thế kỷ XV là một ví dụ đau xót về trường hợp này. Cuộc kháng chiến chống Minh mà nhà Hồ tiến hành là một cuộc chiến tranh chống xâm lược, chiến tranh chính nghĩa nhưng lại không dựa được vào sức dân để đến nỗi “trăm vạn người, trăm vạn lòng” (Nguyễn Trãi) mà thất bại nhanh chóng.
Là một thực thể của xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng bị chi phối bởi tất cả các hằng số vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có truyền thống đoàn kết. Bản thân mốc khởi đầu của Đảng khi thành lập vào tháng 2-1930 chính là sự biểu hiện rõ nét của việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo đến đoàn kết trong Đảng. Nguy cơ phân liệt về tư tưởng, tổ chức giữa những người cộng sản vào đầu năm 1930 ở Việt Nam là có thật. Các tổ chức cộng sản công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng quần chúng của nhau. Thực tế này hoàn toàn không có lợi cho cách mạng và là điều tối kỵ trong nguyên tắc tổ chức của Đảng cộng sản. Hiểu rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề đoàn kết, bằng thiên tài và uy tín của bản thân, cộng với sự giúp đỡ, chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hành động một cách mau lẹ, cẩn trọng, kiên quyết để triệu tập Hội nghị thành lập Đảng vào tháng 2-1930. Trong Hội nghị này, tư tưởng đoàn kết của Người là đồng tâm nhất trí: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”(2).
Không chỉ có vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hiểu rõ rằng: đoàn kết, thống nhất trong Đảng từng được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin coi là yêu cầu chung đối với mọi đảng cộng sản đã đành, nhưng đối với Đảng ta lúc đó còn phải xuất phát từ đặc điểm riêng có của Việt Nam. Đảng ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, tư tưởng tiểu nông manh mún, gia trưởng, bè phái, bản vị, địa phương cục bộ thời phong kiến lại được khoét sâu bởi chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp xâm lược. Hơn nữa, vào thời điểm Đảng ra đời, giai cấp công nhân mới có khoảng trên 22 vạn người, trong đó những người có tay nghề thực thụ (công nhân hiện đại) chỉ có 893 người và số đảng viên là công nhân còn ít hơn. Đây chính là thực tế khách quan, là đặc điểm đặt ra yêu cầu bức thiết số một trong tiến trình thành lập Đảng cũng như xây dựng Đảng là phải đề cao sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Với Hội nghị thành lập Đảng, tên gọi mới của Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm cho Đảng tiếng nói chung, “mẫu số chung” cho cả 3 tổ chức cộng sản. Mẫu số chung đó là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trên cơ sở một đường lối, chính cương, sách lược đúng, thống nhất trên cơ sở điều lệ đúng, vừa bảo đảm được dân chủ nhưng vừa tuân thủ tập trung.


Từ khi ra đời, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ cách mạng trong đó đều thể hiện sự đoàn kết đúng như lời nhận định của Người: “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Nghiên cứu lịch sử của Đảng cho thấy: trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể là cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, song tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn là tư tưởng cơ bản, nhất quán, là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam. Trong lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, thay mặt Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, vì nó là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển hoá những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2.“Cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
Giáo sư Trần Văn Giàu đã từng nhận xét: “Đến Cụ Hồ thì đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng”(3). Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Trong bản Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn kết. Người khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Điều đáng chú ý là, không chỉ nói đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói đến ba cụm từ: “Đoàn kết chặt chẽ”, “Đoàn kết nhất trí”, “Đoàn kết và thống nhất” và đặc biệt là Người đã mượn ý của Lênin để sử dụng hình ảnh “con ngươi của mắt” ví với vấn đề đoàn kết. Ở một văn bản quan trọng đã nhiều năm suy ngẫm, ở một con người mà văn phong đã được cân nhắc từng câu, từng chữ, thì những cụm từ này thật có ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ là điệp khúc trong bản anh hùng ca của Đảng và dân tộc, tạo ra sức mạnh vô địch để làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nó còn là ý niệm và hành động thường trực trong bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh và rồi khi Người đi xa, nó sẽ tiếp tục là ý thức thường trực, là phương châm hành động của những người cộng sản Việt Nam.
Làm thế nào để giữ gìn được sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng? Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Một lần nữa, lời dạy của Bác thể hiện mối quan tâm đến sự đoàn kết thống nhất thực sự trong tư tưởng và hành động của Đảng chứ không phải là cái vỏ bề ngoài. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tổ chức Đảng là đơn vị chiến đấu phải mạnh trong thực chất chứ không phải là trên hình thức. Quan điểm của Người là: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(4). Mọi sự đoàn kết giả tạo, xuê xoa, đoàn kết về hình thức thì trước sau cũng không thể tồn tại. Đoàn kết phải dựa trên nền tảng dân chủ vì chỉ có trên cơ sở dân chủ nội bộ thì đảng viên mới thật sự trung thực, chân thành, thẳng thắn với nhau. Song, đương nhiên phải hiểu dân chủ ở đây là dân chủ đúng đắn chứ không phải là thứ dân chủ nửa vời hay quá trớn phá hoại sự thống nhất trong Đảng, biến sinh hoạt Đảng thành sinh hoạt của câu lạc bộ.
Bên cạnh dòng chữ được đánh máy trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bổ sung một dòng chữ viết tay "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Lời nhắc nhở này là một luận điểm rất quan trọng về đoàn kết trong Đảng. Nó cho thấy, bên cạnh tính kiên quyết trong tự phê bình và phê bình, Bác rất chú trọng tới cái tâm trong sáng trong sinh hoạt Đảng, cái “tình” trong đoàn kết, trong cuộc sống của Đảng. Không xuất phát từ “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” thì mọi cuộc tự phê bình và phê bình sẽ đưa lại kết quả không tốt đẹp, thậm chí, có thể tạo nên một bầu không khí đấu đá, một cuộc thanh trừng trong Đảng. Điều đó chỉ làm suy yếu sức mạnh của Đảng mà thôi. Kết hợp với dân chủ, “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” sẽ tạo ra được một không khí cởi mở, tin cậy, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo để xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Luận điểm này là một cống hiến lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ngành khoa học xây dựng Đảng và vô cùng phù hợp khi đặt trong hoàn cảnh cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như tâm lý, truyền thống “có lý, có tình” của dân tộc Việt Nam.
Bốn mươi năm qua, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đoàn kết một lòng, phấn đấu không mệt mỏi để biến lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành hiện thực. Sức mạnh dân tộc được phát huy mạnh mẽ để chúng ta hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cũng chính sức mạnh dân tộc đã đưa đất nước tiến những bước dài trong công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, Đảng không ngừng đề cao tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, coi đó là nhiệm vụ then chốt. Mãi mãi, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ huy dàn nhạc cử bài “Kết đoàn” sẽ in sâu vào trong tâm khảm của mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta ngày hôm nay, để chúng ta cùng phát huy những thành tựu đã đạt được, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém, tiếp tục phấn đấu vươn lên, góp phần xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới, xứng đáng với công sức và niềm tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2002, t.3, tr.217
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.561
(3) Viện Hồ Chí Minh: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, H.2003, t.2, tr.34
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.477
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và trực tiếp giảng bài cho lớp bồi dưỡng đảng viên mới của Đảng bộ Hà Nội tại Trường Trung học Chu Văn An 5/1966
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và trực tiếp giảng bài cho lớp bồi dưỡng đảng viên mới của Đảng bộ Hà Nội tại Trường Trung học Chu Văn An 5/1966