slider
Phát triển kinh tế số

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và quốc tế trong Cách mạng tháng Tám 1945

06 Tháng 10 Năm 2025 / 9 lượt xem

ThS. Lường Thị Lan

Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Lương Thị Mai

Công ty cổ phần sáng kiến giáo dục

1. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thời cơ cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam xuất hiện, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, chịu ảnh hưởng của những biến động trên thế giới. Nhận biết được quy luật đó từ khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy được thời cơ cho cách mạng Việt Nam đang đến gần. Tháng 6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Nguyễn Ái Quốc triệu tập cuộc họp Ban hải ngoại ở Côn Minh để nhận định tình hình và bàn việc về nước: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”(1).

Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc. Người dừng chân ở Pắc Bó - Cao Bằng và chọn nơi đây để thí điểm phong trào cách mạng. Cùng với những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới thì tình hình cách mạng trong nước rất khẩn trương. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng sự cần kíp phải chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng để kịp thời đáp ứng nhu cầu đấu tranh của nhân dân ta và phù hợp với sự vận động của cách mạng thế giới.

Tháng 5/1941, dưới danh nghĩa đại diện của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng Cộng sản Đông Dương. Người phân tích nguyên nhân của Chiến tranh thế giới thứ hai là do chính sách hiếu chiến, phản động của lực lượng phát xít và nhận định trong cuộc chiến tranh này, “phe phát xít nhất định sẽ thất bại, phe đồng minh sẽ chiến thắng”. Từ đó, Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam lúc này “là một bộ phận trong phe dân chủ chống phát xít”(2) và quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh. Việc lựa chọn con đường đúng đắn thuận lợi cho dân tộc bằng cách đứng về phe chính nghĩa để chống phe phi nghĩa, trên cơ sở dự báo chính xác diễn biến cuộc chiến tranh thế giới đã thể hiện tầm nhìn sáng suốt và hành động mau lẹ, khôn ngoan của Người. 

Hội nghị Trung ương 8 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục phân tích, xác định một lần nữa đường lối chiến lược cùng với vấn đề chiến thuật, sách lược của cách mạng Việt Nam trong thời gian tới, cụ thể đó là những mâu thuẫn cơ bản, kẻ thù chính của cách mạng, về nhiệm vụ, động lực và phương pháp cách mạng… Đặc biệt Hội nghị còn nêu rõ rằng: “Cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận cách mạng thế giới và giai đoạn hiện tại là một bộ phận dân chủ chống phát xít”(3). Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị đề ra sự chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Người còn nói một cách súc tích và giản dị về mối quan hệ giữa tình hình quốc tế với vấn đề dân tộc trong tập diễn ca “Lịch sử nước ta”:

Bây giờ Pháp mất nước rồi, Không đủ sức, không đủ người trị ta.

Giặc Nhật Bản thì mới qua, Cái nền thống trị chưa ra mối mành.

Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh, Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.

Ấy là nhịp tốt cho ta, Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.

Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng từ Hội nghị Trung ương 8 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945. Đồng thời, Người cũng đã có những nhận định chuẩn xác về vấn đề quan hệ quốc tế lúc đó để đề ra những đường lối, chính sách rất cơ bản trong vấn đề dân tộc. Vấn đề đặt ra lúc này cho chúng ta là phải đặt cuộc cách mạng Việt Nam trong bối cảnh quốc tế, tranh thủ tối đa mọi sự ủng hộ của lực lượng đồng minh để giành chính quyền khi thời cơ chín muồi.

2. Đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong mối quan hệ quốc tế nhằm xác định đâu là bạn đâu là thù để tranh thủ mọi sự ủng hộ của Đồng minh nhằm đạt được mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc

Thấm nhuần lý luận cách mạng của V.I.Lê-nin: “Chỉ có thể thắng một kẻ thù mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn và với một điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỷ mỷ..., hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ giữa các kẻ thù... cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh mạnh về số lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, ít chắc chắn và ít tin cậy”(5),  Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”(6). Đó là nguyên tắc chung của mọi cuộc cách mạng. Đối với một dân tộc nhỏ lại phải đối đầu với các kẻ thù mạnh thì việc “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết” càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, cùng với việc chủ động chuẩn bị lực lượng cách mạng trong nước, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất (Việt Minh làm nòng cốt), Hồ Chí Minh nỗ lực tìm kiếm sự ủng hộ của Đồng minh để kháng Nhật, đồng thời tranh thủ sự công nhận của Đồng minh đối với phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam.

Năm 1942, Nguyễn Ái Quốc (lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) quyết định lên đường đi Trung Quốc nhằm tìm cách tiếp xúc với lực lượng Đồng minh trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là phát xít Nhật. Nhưng Người bị Quốc dân Đảng bắt giữ tháng 8/1942 và đến ngày 10/9/1943 Người mới được thả tự do nhưng vẫn bị Quốc dân Đảng giữ lại hoạt động cho Việt Nam cách mạng Đồng minh Hội (một tổ chức của người Việt Nam ở Trung Quốc gồm nhiều đảng phái, do tướng Trương Phát Khuê, Tư lệnh trưởng, đại diện Quốc dân Đảng, trực tiếp chỉ đạo). Trong thời gian hoạt động tại đây, Người vừa tranh thủ đoàn kết, vừa phân hóa, lôi kéo những phần tử yêu nước và tiến bộ đứng về phía cách mạng Việt Nam, đồng thời Người còn tạo được mối quan hệ với một số tướng lĩnh trong Quốc dân Đảng như Trương Phát Khuê…

Sang năm 1943, phe Đồng minh đang từng bước giành được thế chủ động trên chiến trường. Hồ Chí Minh nhận định: “Tình thế cách mạng thế giới đã chuyển biến có nhiều thuận lợi cho cách mạng Việt Nam”(7). Đặc biệt Người đã phát hiện ra mâu thuẫn giữa các nước Mỹ, Anh, Pháp trong việc giải quyết các vấn đề thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Người thấy cần phải đẩy mạnh tiếp xúc với các lực lượng Đồng Minh để đặt cuộc chiến đấu của dân tộc trong bối cảnh cả thế giới đang cùng nhau đứng lên chống phát xít.

Cùng lúc đó, tình hình cách mạng trong nước đang phát triển mạnh mẽ, mặt trận Việt Minh đã xây dựng được nhiều cơ sở trong cả nước. Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “phải gặp Mỹ, tranh thủ sự đồng tình của Mỹ, thêm bạn cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, cho mặt trận Việt Minh, tìm kiếm một quan hệ mức độ có thể với Mỹ để cách mạng Việt Nam có một vị trí nhất định trong phe Đồng minh chống phát xít và triệt để phân hóa hàng ngũ của chủ nghĩa đế quốc”(8). Vì vậy, tháng 02/1945, Hồ Chí Minh lên đường đi Côn Minh tìm cách liên hệ với lực lượng của Mỹ đại diện cho phe đồng minh ở đây. Người đã đích thân đưa viên Trung úy phi công William Shaw (người được nhân dân thị xã Cao Bằng cứu khi bị quân Nhật bắn rơi xuống đây) trao trả cho Bộ chỉ huy Mỹ ở Côn Minh. Tại Côn Minh, Hồ Chí Minh đã gặp các sĩ quan Mỹ trong OSS (tổ chức tình báo của Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai) và OWI (tổ chức thông tin chiến tranh của Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai).

Cuộc trao đổi đã đi đến thỏa thuận: người Mỹ có thể sẽ cung cấp vũ khí, thuốc men và điện đài cho Việt Minh và huấn luyện cho người của Việt Minh biết sử dụng những thứ đó… Mặc dù Nhật xâm chiếm Đông Dương nhưng vẫn duy trì bộ máy cai trị thực dân Pháp để phục vụ cho cuộc chiến tranh của Nhật. Về điều này Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong lúc Nhật-Pháp đang hợp tác chặt chẽ, Việt Minh đã đoán trước rằng chúng sẽ phản nhau, mà Nhật sẽ phản Pháp trước. Nên Việt Minh chuẩn bị kế hoạch để lợi dụng cơ hội đó”(11). Đúng như dự đoán của Người, ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương.

Sau sự kiện này Bộ chỉ huy của Mỹ ở Côn Minh đã nhiều lần cử đại diện đến gặp Hồ Chí Minh để bàn phương thức hợp tác “Việt Minh - Mỹ”. Bởi lúc này Việt Minh đã xây dựng được lực lượng kháng chiến hoạt động thống nhất trong cả nước, nên khi toàn bộ lực lượng của Pháp bị Nhật vô hiệu hóa sau cuộc đảo chính, quân đội Mỹ tại chiến trường Hoa Nam đã quyết định hợp tác với phong trào kháng chiến Việt Nam để chống Nhật trên chiến trường Đông Dương. Kết quả tính đến ngày 10/8/1945, chúng ta đã nhận được 22 chuyến hàng thả dù tiếp viện từ phía Mỹ, bao gồm súng, đạn, quân trang, quân dụng, điện đài và một nhóm quân tình nguyện Mỹ (11 người) trực tiếp hướng dẫn cán bộ Việt Minh sử dụng vũ khí mới và trang thiết bị phục vụ cho khởi nghĩa vũ trang… Ngược lại, Việt Minh đã cung cấp cho Mỹ những thông tin quan trọng về hoạt động của Nhật, đã cứu và giúp đỡ nhiều phi công Mỹ rơi trên đất nước ta…

Đối với Pháp, tuy bị Nhật hất cẳng ở Đông Dương nhưng ngày 24/3/1945 Chính phủ Pháp vẫn lớn tiếng tuyên bố rằng: Liên bang Đông Dương nằm trong Liên hiệp Pháp, quyền lợi ở nước ngoài do Pháp đại diện. Rõ ràng Pháp sẽ tìm mọi cách quay trở lại Đông Dương. Biết được ý đồ đó, Hồ Chí Minh đã gửi cho Chính quyền Đờ Gôn một bản đề nghị gồm 5 điểm để hai bên cùng tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương trong hòa bình, nhưng Chính phủ Pháp đã lờ đi. Rõ ràng Hồ Chí Minh đã không bỏ lỡ một cơ hội nào trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Nhưng những nỗ lực ngoại giao của Người để đòi quyền độc lập cho dân tộc bằng con đường hòa bình đã bị Pháp khước từ. Sau này trong tác phẩm “Một nền hòa bình bị bỏ lỡ”, chính Xanhtơni đã bày tỏ: “những đòi hỏi đó ngày nay thì là như chế giễu, nhưng lúc đó là khá khiêm tốn và hoàn toàn có thể chấp nhận được”.

Từ ngày 17/7 đến ngày 02/8/1945, diễn ra hội nghị giữa ba nước lớn Mỹ - Anh – Liên Xô tại Pốtđam (Hà Lan) để giải quyết nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, trong đó có vấn đề Đông Dương. Cuối cùng các bên đồng ý chia Đông Dương ở vĩ tuyến 16, phía Bắc thuộc quyền kiểm soát Mỹ - Tưởng, phía Nam là Anh.

Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh nhận định: Sự mâu thuẫn giữa hai phe đồng minh Anh - Pháp và Mỹ - Trung Quốc về vấn đề Đông Dương là một điều ta cần lợi dụng và Người xác định “đế quốc phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt, duy nhất” còn “bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan”(12).Vì vậy, chính sách của chúng ta là phải tránh trường hợp: một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ tràn vào nước ta) và đặt một chính phủ của Pháp hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc. Bởi thế cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại ý đồ của Pháp khi định khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương và âm mưu của một số quân phiệt Trung Quốc định chiếm nước ta. Việc thiết lập quan hệ với các lực lượng Đồng minh trước thềm Cách mạng Tháng Tám đã tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho chính quyền cách mạng vì theo Hồ Chí Minh: “các nước Đồng minh... không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam... một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(9).

Như vậy, việc Hồ Chí Minh mở rộng mối quan hệ với các lực lượng Đồng minh là những quyết định sáng suốt, nhằm vừa tranh thủ họ, vừa hạn chế họ, thêm bạn bớt thù cho cách mạng Việt Nam; đồng thời cho họ thấy rõ cuộc đấu tranh của dân tộc ta là cuộc đấu tranh của lực lượng dân chủ trong mặt trận đồng minh chống phát-xít mà họ cần quan hệ.

3. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cách mạng Việt Nam giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chớp thời cơ giành chính quyền

Trên cơ sở dự báo về các xu hướng phát triển chủ yếu trong quan hệ quốc tế, những thay đổi trong chính sách của các nước lớn đối với việc giải quyết các vấn đề trên thế giới, trong đó có Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, xác định đối tượng bạn hay thù, phân hóa và tập hợp lực lượng tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế cho phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đó thấy rõ cơ hội và thách thức để đề ra chính sách phù hợp trong từng thời điểm, kịp thời thúc đẩy cách mạng tiến lên.

Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng đồng minh vô điều kiện, quân Nhật ở Đông Dương hoảng loạn. Trưa ngày 13/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Hồ Chí Minh nhận thấy thời cơ “ngàn năm có một” của cách mạng đã đến với dân tộc chúng ta, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập!”. Ngày 16/8, Hồ Chí Minh chủ trì Đại hội Đại biểu Quốc dân và thông qua Mười chính sách lớn của Việt Minh. Tại Đại hội, Người nêu ra chủ trương “lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền từ tay Nhật, đứng ở địa vị làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương”(13). Người nhấn mạnh: “Không phải Nhật đầu hàng Đồng minh là nước ta tự nhiên được độc lập đâu. Sẽ còn nhiều gay go, trở ngại. Ta phải kiên quyết, khôn khéo để tránh những sự không lợi cho ta”(14). Sau khi Đại hội bế mạc, Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tới đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy dùng sức ta mà giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”(15)

Hưởng ứng Lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới ngọn cờ Việt Minh, nhân dân ta triệu người như một nhất tề đứng lên khởi nghĩa, giành thắng lợi từng phần tiến tới giành thắng lợi trên toàn quốc, làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945 lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, ấn định ngày ra mắt quốc dân và tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Đây là quyết định nhạy bén, sáng suốt của Người trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình quốc tế sau chiến tranh; đồng thời khẳng định ý chí sắt đá của dân tộc ta quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được.

Như vậy, có thể khẳng định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đoàn kết toàn dân cùng đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Nhãn quan chính trị sắc bén, tầm nhìn chiến lược của Người trong việc giải quyết đúng đắn và kịp thời mối quan hệ giữa nhiệm vụ quốc tế và dân tộc để tranh thủ các lực lượng tiến bộ bên ngoài, phát huy nội lực bên trong đã làm nên Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra một chương mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam.

Chú thích:

1.  Đầu nguồn, Nxb Văn học, H,1975, tr.234.

2.  Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nguyễn Dy Niên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, H.2009,

3.  Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006, t. 2,  tr. 111 

5.  V.I.Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 68-69

6.  Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.605

7, 8. Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, H2010, tr47.

9.  Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.557

10.  Hồ Chí Minh, Toàn tập, t3, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, H, 2000, tr.505-506

11.  Báo Cứu quốc, số 942, ngày 25-5-1948. 

12.  Văn kiện đảng 1930-1945, t3, t385-386

13.  Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1981, t1, tr395

14.  HCM toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, H2002,tập 3, tr380

15.  Hồ Chí Minh Toàn tập, t3, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, H2002, tr.554.

 

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)