slider
Phát triển kinh tế số

Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền giáo dục mới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945

04 Tháng 10 Năm 2025 / 10 lượt xem

ThS. Vũ Thị Kim Yến

Phòng STKKTL

Phạm Phương Trang

Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Câu nói ngắn gọn hàm chứa tư tưởng cơ bản, có tính nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản chất và vai trò của giáo dục đối với sự cường thịnh hay suy vong của quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là sự nghiệp văn hóa vĩ đại, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con người, làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình.

Trên hành trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục là một bộ phận của công cuộc giải phóng dân tộc. Tham dự Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương, Người đã có bài phát biểu lên án chủ nghĩa thực dân Pháp khiến cho nhân dân thuộc địa không chỉ bị áp bức và bóc lột mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm: “Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu”1.

Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết năm 1925 Người cũng đanh thép tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp ở thuộc địa: “Nhân dân Đông Dương khẩn khoản đòi mở trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng. Mỗi năm, vào kỳ khai giảng, nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi thần thế, có khi chịu trả gấp đôi tiền nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học. Và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường... “Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”2. Chính vì vậy, sau khi tìm được con đường cách mạng đúng đắn theo con đường cách mạng vô sản, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước. Thông qua các hoạt động huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng ngay từ khi trở về Quảng Châu (Trung Quốc) như tổ chức lớp học, biên soạn tài liệu, trực tiếp giảng dạy, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thực sự là một thầy giáo cách mạng đầu tiên. Nhiều học trò của Người sau đó cũng trở thành những nhà giáo dục đi sâu vào phong trào quần chúng vừa dạy văn hóa, vừa tuyên truyền cách mạng. Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, một chân trời rộng rãi cho giáo dục. Tuy nhiên đất nước đứng trước biết bao thử thách như “ngàn cân treo sợi tóc” trước sự phá hoại của các thế lực phản động trong và ngoài nước.

Chúng trực tiếp xâm lược miền Nam và ráo riết tiến hành các hoạt động lật đổ miền Bắc. Kinh tế tài chính kiệt quệ, nạn đói khủng khiếp còn hoành hành. Trong cơn sóng gió như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng và thật sáng suốt khi Người không đặt công việc văn hóa giáo dục ở thứ bậc bình thường, mà khẳng định diệt dốt, nâng cao dân trí là một trong những công việc cấp bách của chính quyền cách mạng - “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất với các vị Bộ trưởng: “nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”3.

Để thực hiện chiến lược này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những giải pháp rất kịp thời. Năm ngày sau khi phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, chỉ trong ngày 8/9/1945 có ba sắc lệnh của Chính phủ được liên tiếp ban hành, đặt sự nghiệp bình dân học vụ vừa là một phong trào cách mạng vừa là một thiết chế văn hóa giáo dục của Nhà nước Dân chủ cộng hòa. Đó là: Sắc lệnh số 17/SL, thành lập Nha Bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam, chuyên lo việc học cho nhân dân; Sắc lệnh số 19/SL, quy định hạn trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học cho nông dân và thợ thuyền; Sắc lệnh số 27/SL, cưỡng bách học chữ quốc ngữ và không mất tiền cho mọi người, hạn trong một năm, tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.

Tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi chống nạn thất học, nêu rõ vai trò giáo dục đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhắc nhở mọi công dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi và bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, cùng ra sức chống nạn thất học. Không thể chờ đợi đội ngũ giáo viên hàng chục vạn người được đào tạo chính quy qua các trường sư phạm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ giáo viên là chồng đối với vợ, anh đối với em, con cái đối với cha mẹ, chủ nhà đối với người ăn, người làm..., tóm lại là người biết chữ dạy người không biết chữ. Người còn đề xuất những người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình. Có tầm nhìn chiến lược sâu xa đối với tác dụng của sự nghiệp Bình dân học vụ, ngày 01/5/1946, nhân kỷ niệm Ngày quốc tế Lao động đầu tiên trên đất nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Bình dân học vụ nhằm mở mang tri thức cho đồng bào, xây đắp nền văn hóa sơ bộ cho dân tộc. Trong năm 1946,

dù bận rộn cùng Trung ương Đảng, Chính phủ chống “thù trong, giặc ngoài”, bảo vệ chính quyền nhân dân non trẻ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến Bình dân học vụ. Người đi thăm các lớp Bình dân học vụ của Hà Nội, tham dự Lễ khai giảng Lớp huấn luyện đầu tiên đào tạo cán bộ phụ trách Bình dân học vụ các tỉnh Bắc Bộ tại Hà Nội và chỉ rõ: Chống nạn thất học cũng quan trọng như chống ngoại xâm. Trước khi lên đường đi Pháp đàm phán về quyền độc lập, thống nhất đất nước, Người căn dặn quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng cần chú ý đến công việc Bình dân học vụ. Ngày 05/11/1946, trong lúc tình hình Hà Nội rất căng thẳng vì sự khiêu khích của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đến thăm lớp Bình dân học vụ ở Trường Hàng Than và phố Hàng Bún, sát nơi Pháp đóng quân. Tại Trường Hàng Than, Bác ân cần hỏi thăm học viên và ghi vào Sổ Vàng của Trường dòng chữ: “Thầy siêng dạy. Trò siêng học”4.

Có thể khẳng định, với quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bình dân học vụ đã nhanh chóng trở thành một phong trào cách mạng sôi nổi nhất trong giai đoạn Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập. Bình dân học vụ đã gắn vào phong trào yêu nước, chống ngoại xâm, phá vỡ âm mưu và kế hoạch “bóp chết” chính quyền cách mạng của lực lượng phản động trong và ngoài nước. Bình dân học vụ cũng đã hỗ trợ phong trào tăng gia sản xuất, tương thân, tương trợ, nhường cơm xẻ áo thắm đượm tình đồng bào trong công cuộc chống giặc đói. Chỉ trong một năm (từ ngày 19/8/1945 đến ngày 19/8/1946) riêng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã có 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Từ chỗ hơn 95% mù chữ, dân ta đã trở thành một dân tộc có văn hóa, khoa học, đủ khả năng để giữ gìn nền độc lập, tự do cho đất nước.

Từ phong trào bình dân học vụ, một kỷ nguyên mới của nền giáo dục cách mạng do dân, của dân và vì dân đã được hình thành. Trong suốt những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại trên miền Bắc từ năm 1954, rồi đến cuộc kháng chiến ác liệt chống đế quốc Mỹ xâm lược ở thập kỷ 60 của thế kỷ XX, cho đến lúc Người đi xa, hầu như không năm nào Chủ tịch Hồ Chí Minh không gửi thư cho ngành giáo dục hoặc đến thăm các trường học, cơ sở giáo dục.

Trong những bức thư, những lời phát biểu của Bác khi đến thăm các trường cũng như những lần làm việc với lãnh đạo Bộ Giáo dục, với các cấp ủy Đảng và chính quyền, Bác đều nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của giáo dục, bồi dưỡng trong nhà trường: “...Từ tiểu học, trung học cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà”5.

Từ những trải nghiệm của công việc giảng dạy, huấn luyện cán bộ, từ cuộc đời tự học để vươn tới đỉnh cao học vấn, trong những lần đến thăm thầy trò các trường, Bác đã trao đổi kinh nghiệm của bản thân về việc dạy và việc học. Bác nhắc nhở nền giáo dục mới và nhà trường mới phải thực hiện hoạt động dạy và học theo mục tiêu “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”, “Học để sửa chữa tư tưởng”, “Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng”, “Học để tin tưởng” và “Học để hành”. Để đạt mục tiêu giáo dục nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục toàn diện: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”. Nội dung giáo dục mới là: “Cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho học trò có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ… Trong chương trình học, phải trọng về môn tinh thần và đạo đức. Phải tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ mà giáo dục thực dân còn để lại”. Trong nội dung giáo dục, nhấn mạnh phương thức học đi đôi với hành để “Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen lao khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỳ lực (làm lấy mà ăn), không ăn bám xã hội. Bốn là có ích cho sức khỏe của họ”6.

Đây là những nội dung giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam. Đó cũng là những nội dung hoạt động chủ yếu của nhà trường xã hội chủ nghĩa trong quá trình đào tạo huấn luyện học sinh vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của loài người và dân tộc. Nhà trường phải bảo đảm cho thế hệ trẻ dần dần làm chủ kho tàng kiến thức văn hóa của loài người, trau dồi cho mình một vốn hiểu biết về khoa học, kỹ thuật cơ bản, thiết thực, vững chắc, có thể vận dụng được và rèn luyện thói quen, kỹ năng lao động và thực hành. Thế hệ trẻ cũng còn phải được giáo dục về lý tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa - hạt nhân của nhân cách người lao động. Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người dưới chế độ mới phải có cả tài lẫn đức, trong đó đức là nền tảng cho sự phát triển nhân cách. Theo Người, “muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?7”. Cho nên, Người thường khích lệ, động viên giáo viên và những cán bộ giáo dục phải bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tình cảm tốt đẹp, trước hết là tình thương yêu người ruột thịt, yêu bạn bè, đồng chí, yêu cô giáo, thầy giáo, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, hình thành ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức tập thể, lối sống thật thà, khiêm tốn, trung thực, giản dị, biết xử sự theo tinh thần “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” và thói quen thực hành đời sống mới.

Tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở tư tưởng và lý luận cho các cuộc cải cách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta, xây dựng nhà trường dân tộc, dân chủ nhân dân và nhà trường xã hội chủ nghĩa. Đến nay, ngành giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của toàn xã hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định.

80 năm đã trôi qua từ thời điểm thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh và thịnh vượng. Để tiếp tục là “quốc sách hàng đầu” thì sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà phải quyết liệt đổi mới căn bản và toàn diện hơn nữa, phải được xây dựng thực sự chất lượng và sáng tạo, thích ứng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, hướng tới mục tiêu giáo dục và đào tạo Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á vào năm 2030 và đạt trình độ tiên tiến của thế giới vào năm 2045. Nhất thiết phải đổi mới tư duy giáo dục, trước hết thể hiện qua quan niệm đúng đắn về vai trò của giáo dục, của học vấn, của tri thức trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội như Kết luận số 91 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29 (đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo) nhấn mạnh: “Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu địa phương, đơn vị tiếp tục nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”8. Từ đó, có chính sách đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục như đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển con người, có chính sách đào tạo nhân tài, trọng dụng người tài; chăm lo cho giáo dục phổ thông, trước hết là giáo dục đạo đức, tư tưởng, chính trị; các chương trình đào tạo cần chú trọng các lĩnh vực như: Công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn (Big Data)... Có như vậy mới có các thế hệ cách mạng tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của Đảng và Bác Hồ muôn vàn kính yêu.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.34, 35

2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.107, 108

3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.7

4. Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.307

5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.120

6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.120-121

7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.292-293

8. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/ ket-luan-so-91-kltw-ngay-1282024-cua-bo-chinh-tri-ve-tiep-tuc-thuc-hien-nghi-quyet-so-29-nqtw-ngay-04112013-cua-ban-chap-10637

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)