Chuyện kể về một gia đình Việt kiều yêu nước vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết Quý Mão 1963
Hoàng Kiều Trang
Phòng Sưu tầm, Kiểm kê, Tư liệu
Ông Phạm Văn Công sinh năm 1916 tại làng Cổ Khúc (Khuốc), phủ Cao Mỗ, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình (thôn Cổ Khúc, xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình hiện nay1). Năm 1939, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Quyển rời quê hương đi phu mộ sang Tân Thế Giới (Nouvelle - Calédonie) - thuộc địa của Pháp - làm công nhân khai thác mỏ “kền” (nickel) cho chủ Pháp. Theo “giao kèo” (hợp đồng) thì sau 05 năm chủ phải trả những người phu mộ Việt Nam về quê hương. Thế nhưng, viện cớ chiến tranh Đông Dương nên Pháp trì hoãn hồi hương Việt kiều để giữ lực lượng lao động này lại.
Sau nhiều lần đòi quyền về nước không được, năm 1945 ông cùng một nhóm anh chị em vận động bà con lao động Việt Nam bãi công, kéo “cờ đỏ sao vàng” đòi được tự do, tìm việc làm, thoát khỏi ràng buộc của “giao kèo làm cu ly”. Năm đó, ông cùng vợ gia nhập Đảng Cộng sản Pháp do bà Tunica - một người Pháp gốc Nga - làm bí thư chi bộ. Cuộc bãi công thắng lợi, năm 1947 ông cùng gia đình chuyển ra thành phố Nouméa, làm nghề thợ may kiếm sống.
Trong quá trình này gia đình ông vẫn cùng bà con Việt kiều hướng về đất nước. Ông là một trong những người lãnh đạo Việt kiều ở Tân Thế Giới thành lập hội “Việt Nam Công nhân Tân Thế Giới” để cổ vũ và thể hiện bằng hành động cụ thể tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước của bà con Việt kiều qua việc theo dõi, tuyên truyền và lập các Quỹ gửi tiền về nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào trong nước vào những dịp lễ lớn. Ông được bà con tín nhiệm bầu làm Tổng thư ký Hội nhiều khoá. Ngoài tổ chức này, ông còn là Đại biểu của “Hội Hàng Tỉnh” - những tổ chức Việt kiều theo địa lý quê hương - để đoàn kết thăm hỏi, giúp đỡ nhau thường xuyên cũng như những lúc đau yếu, khó khăn...
Năm 1954, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam thắng lợi và hoà bình được lập lại ở Đông Dương, chính quyền địa phương và một nhóm những tên thực dân thua trận từ Đông Dương quay về, càng o ép kiều bào nhiều hơn. Chúng bắt đóng cửa trường học dạy tiếng Việt Nam, giải tán hội Việt Nam Công nhân Tân Thế Giới và tịch thu tài sản in ấn v.v... của Hội. Ông Phạm Văn Công cùng những anh em lãnh đạo khác rút vào hoạt động bí mật: họp hành, tổ chức dạy học tiếng mẹ đẻ cho trẻ em.
Nhà ông chính là một cơ sở thường xuyên để làm những việc đó. Giai đoạn này việc lãnh đạo Việt kiều nhằm 2 mục đích chính: đòi quyền hồi hương về miền Bắc Việt Nam và quyên góp ủng hộ Tổ Quốc nhân dịp những ngày kỷ niệm. Trong nhiều năm, ông giữ sổ sách và giúp đỡ bà con chuyển tiền qua Ngân hàng Thương mại Bắc Âu (Banque commerciale pour l’Europe du Nord) về Việt Nam để giúp gia đình hoặc ủng hộ Tổ quốc. Tất cả những việc này ông và các con đều làm tự nguyện không công xá.
Năm 1959 chính quyền địa phương lại đề ra các chính sách mới bắt Việt kiều đóng “thuế thân” và lấy “thẻ ngoại kiều”. Đây lại là một giai đoạn đấu tranh phản đối quyết liệt của kiều bào do ông Công cùng một số anh em khác lãnh đạo. Với lý lẽ và yêu sách là: Pháp phải trả Việt kiều về quê hương sau 5 năm làm việc theo đúng “giao kèo”, người Việt Nam không tự ý muốn ở lại Tân Thế Giới nên không đóng “thuế thân” và lấy “thẻ ngoại kiều”.
Tình hình căng thẳng nên bọn chỉ điểm và cảnh sát đã đến nhà ông và 8 anh em khác lãnh đạo phong trào, lục soát, tịch thu tài sản và bắt giam để tra hỏi. Không lay chuyển được ý chí đòi hồi hương và không khai thác được gì về tổ chức của Việt kiều, kể cả những liên lạc của ông và Hội Việt Nam Công nhân Tân Thế Giới với Hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp (do ông Dương Bạch Mai và sau là ông Nguyễn Khắc Viện đứng đầu...), chúng lập phiên toà và xét xử, kết án ông cùng 8 anh em lãnh đạo phong trào Việt kiều yêu nước 6 tháng tù giam biệt đảo. Trong tù ông vẫn cùng anh em liên lạc với bên ngoài để chỉ đạo phong trào và nắm tin tức “bên nhà” - Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kết hợp đòi Pháp thực hiện yêu sách của Việt kiều Tân Thế Giới.
Giữa năm 1960, lúc ông cùng bạn bè mãn hạn tù, cũng là lúc cuộc đấu tranh của Việt kiều thắng lợi: Pháp phải chấp nhận ký Hiệp định trả Việt kiều về miền Bắc Việt Nam. Gia đình ông về nước chuyến tàu thứ hai, vào đầu năm 1961. Tuy nhiên, với tinh thần tận tụy cùng bà con kiều bào, theo yêu cầu của Đoàn phái viên của Chính phủ ta do ông Vũ Hoàng – khi đó là Vụ trưởng Vụ Lãnh sự, Bộ Ngoại giao làm trưởng đoàn, ông chấp nhận để con trai cả là Phạm Văn Đức ở lại công tác cùng Đoàn và Ban hồi hương, tổ chức cho bà con hồi hương chu đáo và cùng Đoàn về nước vào chuyến cuối cùng ngày 08/3/1964.
Về nước, theo chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và Ban Việt kiều Trung ương tạo công ăn việc làm cho kiều bào, ông tập hợp một số bà con Việt kiều ở Tân Thế Giới và ở Thái Lan mới về nước thành lập và làm chủ nhiệm Hợp tác xã may đo cao cấp Tân - Thái. Cùng năm ấy ông được bầu là Uỷ viên Uỷ ban Trung Ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tham gia phối hợp với các tổ chức của Đảng và Chính phủ về nhiều hoạt động khác liên quan đến an ninh và quyền lợi của Việt kiều.
Ông càng hăng hái công tác và năm 1966 lại được dự Hội nghị Chính trị đặc biệt do Hồ Chủ Tịch triệu tập bàn về chống Mỹ cứu nước. Do một tai nạn giao thông bất ngờ vào ngày 2/9/1966, ông đã qua đời tại Hà Nội thọ 50 tuổi. Ông có 6 người con trai thì 3 người tham gia quân đội và đi chiến trường “B”. Một người là liệt sỹ ở chiến trường Trị Thiên, một là thương binh, một là bệnh binh. Sau khi phục viên, các con ông đều công tác tại các cơ quan Nhà nước.
Tháng 3/2025, Phòng Sưu tầm, Kiểm kê, Tư liệu (Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) đã đến thăm gia đình ông Phạm Văn Giao – con trai ông Phạm Văn Công. Ông Giao xúc động nhớ lại và kể về những kỷ niệm của gia đình ông với Chủ tịch Hồ Chí Minh mà ông được nghe qua lời kể của ba mẹ. Đối với ông và cả gia đình, đó là niềm vinh dự và tự hào, để từ đó, gia đình ông và thế hệ con cháu sau này luôn cố gắng phấn đấu để xứng đáng với sự quan tâm của Bác. Từng hiện vật như bộ bàn ghế, bộ ấm chén dùng để đón tiếp Bác ngày hôm đó được gia đình lưu giữ cẩn thận cho đến ngày hôm nay:
1. Bác Hồ đến thăm gia đình ông Phạm Văn Công tại số 97 Ðại La, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Ðó là dịp Tết năm Quý Mão 1963. Một bất ngờ lớn đã đến với gia đình ông Phạm Văn Công. Như mọi gia đình lao động khác ở Hà Nội, sau cả năm trời bận bịu làm ăn, chiều 30 Tết mới có dịp quét dọn, trang trí lại nhà cửa để đón Giao thừa và Xuân mới. Ngay từ chiều ông Công cũng đã được đón đại diện Ban Việt Kiều Trung ương, các đồng chí ở Uỷ ban Hành chính Khu đến thăm. Sau đó lại có cả các đồng chí ở Công an cũng xuống riêng một đoàn. Ông nghĩ: đây toàn là những người quen biết trong quan hệ công việc an ninh mọi khi nên cuộc viếng thăm nhân ngày Tết là quí hoá chứ cũng chẳng có gì đặc biệt.
Nhưng khi thấy vẻ căng thẳng và trịnh trọng của đồng chí Công an khu phố khi hướng dẫn cấp trên thăm nhà cửa, ngõ trước, ngõ sau... và hỏi han tỉ mỉ thì ông chợt nghĩ chắc có điều gì quan trọng đây. Biết vậy, nhưng vốn dĩ là người kín đáo và cẩn thận, ông vui vẻ tiễn khách ra về, trong lòng khấp khởi một nỗi niềm xúc động là lạ nhưng cũng không nói với ai vội (kể cả vợ ông) về những suy nghĩ của mình.
Sau bữa cơm chiều, các con ông xin phép đi Câu lạc bộ Thiếu niên (Cung văn hoá thiếu nhi Hà Nội hiện nay) vì là Tết đầu tiên được hoà mình với các bạn trong nước cùng lứa tuổi đón giao thừa trong không khí tưng bừng của cả nước. Ông Công tiếp tục công việc trang trí gian phòng và vợ ông lụi cụi chuẩn bị bữa cơm tất niên để chờ các con đi chơi về.
Bỗng nhiên ông nghe có tiếng ôtô đỗ ngoài cổng và có tiếng nhiều người nói lao xao và tiếng chân bước, đi vào ngõ nhà mình. Ông vừa kịp rời từ trên chiếc ghế đẩu xuống, tay vẫn còn cầm nguyên chiếc búa để đóng đinh lên tường treo hai vế câu đối dưới ảnh Bác Hồ thì thật bất ngờ là trước khung cửa nhà đã thấy hiện ra “Bác Hồ thật” đang tươi cười nhanh nhẹn bước vào cùng một số đông người khác. Ông không nói được gì và không tin vào mắt mình nữa vì nghĩ có lẽ nào một vị chủ tịch nước được nhân dân mình kính trọng và tiếng tăm vang lừng khắp thế giới như ông đã từng biết khi còn ở nước ngoài, lại “hạ cố” đến tận nhà mình! Còn vợ ông thì bàng hoàng hơn nhưng lại thốt ngay ra lời nói chân thành từ trái tim mình: “Ôi! có phải là Bác Hồ không? Bao nhiêu năm chúng con mong mỏi Bác mà...”. Bác chậm rãi nói một cách bình dị như để xoá bớt nỗi xúc động và ngỡ ngàng trong lòng vợ chồng ông: “Ờ! thế thì bây giờ gặp nhau rồi, ta nói chuyện đi!” Ông chợt nhớ ra là chưa mời Bác ngồi nên vội kéo mấy chiếc ghế nhôm căng bạt của Liên Xô mới sắm cùng bộ bàn về mời Bác và mọi người ngồi. Bác xua tay và kéo chiếc ghế bằng gỗ cạnh chiếc bàn học của con ông, ngồi xuống. Những người khác vẫn đứng quanh Bác, không ai ngồi cả. Lúc này ông mới định thần nhìn các vị khách và nhận ra một vài người như đồng chí Lê Văn Lương, Hồ Trúc...
Bác hỏi thăm các con ông đi đâu, hỏi xem nhà đã chuẩn bị Tết ra sao, có bánh chưng không, hỏi chuyện về bà con Việt kiều mới về nước và căn dặn ông về công tác và nuôi dạy con cái... Trong khi ông trả lời Bác thì vợ ông thấy Bác hỏi chuyện Tết, đã thật thà vào buồng trong lễ mễ bê ra mấy cặp bánh chưng. Bác cười thân mật nói là mới ăn cơm xong và rút thuốc lá ra hút...
Ông bà không thể ngờ rằng điều ấy đã xảy ra. Ông nhớ đến Tết năm 1961 phải đón Xuân trên tàu biển vượt đại dương mênh mông về Tổ Quốc và mồng 5 Tết thì cập bến Hải Phòng. Ngay hôm sau, ông được bố trí cùng một số anh em lên Hà Nội, vào Chủ tịch Phủ để chúc Tết Bác nhưng hôm đó Bác bị đau răng nên không gặp Ðoàn được và đã cử Thủ tướng Phạm Văn Ðồng thay mặt Bác tiếp mọi người. Vậy mà hôm nay Bác lại thân chinh xuống tận nhà thăm gia đình ông. Ông hiểu ra rằng vinh dự này không chỉ là riêng của gia đình mình. Bác bận trăm công nghìn việc nhưng vẫn hiểu hết tấm lòng những người con xa xứ như những ngày nào Bác đã lưu lạc ở nước ngoài, đi tìm đường cứu nước, lòng vẫn đau đáu nỗi niềm đất nước, quê hương và gia đình. Vì vậy, cũng là thêm một lý do để trong trái tim Bác vẫn luôn có chỗ dành cho kiều bào sống xa Tổ Quốc.
Gần một tiếng đồng hồ đã qua đi nhanh quá! Ông cùng vợ đang còn bâng khuâng tiếc cho lũ trẻ không có mặt ở nhà buổi tối nay để gặp Bác thì ngoài cổng đã ầm ào tiếng bà con hàng xóm và khối phố vào chúc Tết gia đình và chia sẻ niềm vui chung của “phố mình” được đón Bác. Ðúng là vui hơn Tết! Mọi người chào hỏi, cười nói với nhau râm ran mãi đến gần giao thừa mới chịu dần dần ra về.
Các con ông cũng vừa đi chơi về, đang định khoe với bố mẹ về những trò vui và không khí Tết khác trước mà chúng chưa hề được hưởng thì đã tiếc ngẩn người khi ông bà kể cho chúng nghe về một tối giao thừa có một không hai trong đời mình như thế...
2. Má tôi2 dự lễ viếng Bác
Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đồng bào cả nước vô cùng tiếc thương Người, ai cũng mong được đến viếng, tiễn đưa Người. Ngày ấy việc bình chọn trong cả Thành phố Hà Nội ai được đến viếng Bác Hồ không phải việc dễ. Nhà tôi ở một “khối phố” (bây giờ gọi là phường) rất “khiêm tốn” của Khu Hai Bà Trưng. Vậy mà má tôi – một người phụ nữ “thường dân”, đã ngoài lục tuần vẫn được “chọn” đi viếng Bác … Chúng tôi hỏi và má kể là sang Tổ dân phố xem không thấy tên, Má chỉ nói: “Các bác nghĩ sao chứ lúc Bác Hồ còn sống Bác còn đến nhà thăm chúng tôi được mà bây giờ Bác mất lại không cho tôi đến viếng Bác thì “nghĩa là làm sao”, rồi biết “ăn nói” với con cháu và mọi người thế nào !?”. Vậy là Má tôi được có tên trong danh sách đến viếng Bác.
3. “Món quà hồi môn”
Hơn 60 năm trôi qua, bộ bàn ghế dùng để tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày đó vẫn được gia đình tôi trân trọng và gìn giữ cẩn thận… Bộ bàn ghế được sản xuất tại Nga, ba má tôi mua vào khoảng năm 1961-1962 tại “Bách hóa Tổng hợp Hà Nội” (nay là Tràng Tiền Plaza). Ngày gia đình tôi rời 97 Đại La chuyển nhà đến ở khu tập thể Thành Công, má nói: “Các con đi ở riêng nơi khác, má chẳng có gì cho, con giữ bộ bàn ghế này làm kỷ niệm” và như vậy bộ bàn ghế đó đă trở thành kỷ vật, là “món quà hồi môn” má tặng lại cho gia đình nhỏ của tôi từ đó.
Bộ bàn ghế không chỉ mang ý nghĩa kỷ niệm với gia đình, nó còn là hiện vật đã chứng kiến một câu chuyện lịch sử, thể hiện tình cảm nồng ấm, gần gũi, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân cũng như tình cảm yêu mến, tôn trọng của nhân dân đối với vị lãnh tụ vĩ đại. Với mong muốn được giữ gìn và lan tỏa câu chuyện về Chủ tịch Hồ Chí minh, gia đình ông Phạm Văn Giao quyết định tặng lại kỷ vật là bộ bàn ghế ba má ông đã từng dùng để tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến chúc Tết Quý Mão 1963 cho Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch vào ngày 03/4/2025.
Ghi chú:
1. Từ ngày 01/7/2025 thuộc tỉnh Hưng Yên.
2. Theo lời kể và cách xưng hô của ông Phạm Văn Giao.