slider
Phát triển kinh tế số

Chuyện kể về Quốc dân Đại hội Tân Trào

07 Tháng 10 Năm 2025 / 9 lượt xem

Hồ Thị Quỳnh Trang

Phòng Tuyên truyền, Giáo dục

Chiều ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, một sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hành trình lịch sử của dân tộc Việt Nam - đó là Quốc dân Đại hội Tân Trào. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc-Trung-Nam, đại diện các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ, trí thức, đoàn thể nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và kiều bào ở nước ngoài. Lúc này, Lệnh Tổng khởi nghĩa đã phát đi, vì vậy thời gian họp rất khẩn trương để các đại biểu kịp về địa phương lãnh đạo khởi nghĩa.

Đại hội đã đưa ra những quyết định mang tính sống còn của dân tộc: thông qua được lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh; bầu ra Ủy ban Giải phóng  dân tộc Việt Nam tức chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, gồm có 15 người do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch là đồng chí Trần Huy Liệu. Đại hội đã quy định lấy biểu tượng sao vàng năm cánh trên nền cờ đỏ là Quốc kỳ và lấy bài hát Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao là bài Quốc ca của nước Việt Nam. Dưới gốc đa Tân Trào, ngày 16/8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đọc bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa, chỉ huy đơn vị Giải phóng quân tiến về Hà Nội.

Ngay sau khi Lệnh Tổng khởi nghĩa được phát đi, tỉnh Tuyên Quang đã nhanh chóng tổ chức khởi nghĩa và là địa phương được giải phóng sớm nhất trong cả nước vào ngày 17/8/1945. Những sự kiện, diễn biến, khí thế của Quốc dân Đại hội Tân Trào và hình ảnh vị Chủ tịch Ủy ban giải phóng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên vẹn, sống động trong trí nhớ những người đã trực tiếp tham dự hai ngày Đại hội hừng hực khí thế giành độc lập dân tộc.

Đồng chí Chu Văn Tấn kể: “Chúng tôi cùng đồng chí Văn, đồng chí Song Hào và một số cán bộ nữa đến đón Bác ở đình Hồng Thái... Bác cùng chúng tôi tay bắt mặt mừng vô cùng cảm động. Bác nhìn suốt mọi người hỏi thăm sức khỏe và nói chuyện thân mật với chúng tôi khác nào một người cha lâu ngày xa vắng nay mới lại gặp đàn con thân yêu của mình. Trong chốc lát, Bác nắm được sơ bộ tình hình địa thế rồi Bác giục chúng tôi đưa ngay Bác về nơi đóng cơ quan. Nơi ấy là xã Kim Long.

Sau một thời gian ngắn, công việc của Bác đã đi vào nền nếp, sự liên hệ công tác Trung ương với các địa phương ngày càng tăng, do đó làm việc ở làng không tiện lắm và bắt đầu chuyển cơ quan lên đóng ở rừng. Nhà ở của Bác là một chiếc lán nhỏ làm theo kiểu nửa sàn, giữa một khu rừng nứa ở lưng chừng đồi. Bác làm việc suốt ngày, thường đến tận đêm khuya, có nhiều lúc đang ngủ cũng dậy làm việc. Có lần nửa đêm, Bác dậy, chúng tôi ở cạnh, có hỏi Bác, thì Bác nói: “Đang nghĩ được một vấn đề, phải dậy ghi lại cho khỏi quên”. Có một lần, chúng tôi đang ở mặt trận trên đường số 3, cây số 36 rẽ vào chợ Chu, bỗng có thư hỏa tốc của đồng chí Văn báo là: “Bác mệt, tiếp được thư phải về ngay không kể ngày đêm” và phải tìm một người giỏi thuốc nam về chữa cho Bác. Chúng tôi biết có bà Páo là một bà lang thiểu số nên mời bà đến chữa cho Bác. Vào thăm Bác hôm ấy có tôi và anh Văn, về đến nơi thì Bác đã mệt khá nặng. Bác vẫn hỏi thăm tình hình phong trào chung, tình hình mặt trận, an ủi chúng tôi và chỉ thị công tác cho chúng tôi. Còn Bác thì luôn ở bên cạnh máy chữ, nhiều lúc miệng chỉ thị, tay đánh máy. Anh Văn và tôi khuyên Bác hãy xếp công việc lại và nghỉ cho khỏe đã. Nhưng Bác nói Bác vẫn còn làm việc được. Thấy Bác phải tiếp chuyện nhiều, ảnh hưởng đến sức khỏe, chúng tôi từ giã ra nghỉ ở ngoài làng. Lúc ra, Bác không quên dặn lại chúng tôi: “Nhà đã mua được con ba ba, mai các chú lại đây ăn cơm cùng cho vui”. Hôm sau chúng tôi về chỗ Bác ăn cơm. Đến nơi thấy Bác vẫn làm việc như hôm qua với chiếc máy chữ bên cạnh luôn luôn hoạt động mặc dầu bệnh chưa chuyển mấy. Ăn cơm xong, Bác vẫn còn say mê trò chuyện với chúng tôi, mặc dầu Bác càng nói càng mệt. Chúng tôi mời Bác đi nghỉ, và xin phép Bác ra về... Ra được một quãng, hai anh em chúng tôi lại bí mật lẻn vào và bê cái máy chữ của Bác giấu hẳn đi một chỗ. Hôm sau chúng tôi vào thăm Bác. Bác trách chúng tôi: “Máy của tôi lúc nào cũng phải ở bên cạnh để làm việc. Các chú cất máy làm tôi phải bó tay, có hại cho công việc chung”. Tuy vậy chúng tôi vẫn nhất định chưa đưa máy ra. Mấy hôm sau, Bác khỏe dần. Lúc ấy chúng tôi đưa máy cho Bác. Bác cũng vui vẻ và lại tiếp tục làm việc như mọi ngày”(1).

Đồng chí Nguyễn Lương Bằng nhớ lại: “Bước vào cái lều Bác ở, tôi rất cảm động. Nhà trống hơ trống hoác, bốn phía không có phên che. Ngoài chiếc máy đánh chữ và một ít giấy, không có một thứ đồ đạc gì khác. Bấy giờ đã vào thu, lại sau những trận mưa liên miên, khí trời lành lạnh, Ông Cụ ngồi xổm một mình trên sàn. Tôi nhận ra ngay Ông Cụ, nhưng Ông Cụ hom hem quá, khác hẳn đồng chí Vương hồi trước. Ông Cụ đã để râu, tóc lốm đốm bạc, hai má hóp lại.

Đầu đội miếng vải túm lại như mũ nồi. Mình mặc áo cộc chàm, hai chân gầy khẳng khiu làm cho hai ống quần soóc càng rộng. Chỉ có đôi mắt là vẫn sáng như xưa. Chúng tôi hỏi thăm sức khỏe, hỏi về thuốc men, Bác nói: “Có một bà con thiểu số ở đây vào rừng lấy thuốc lá về cho mình uống. Uống mấy hôm nay đã đỡ”. Bác bảo mọi người ngồi. Giọng nói không có gì đổi khác, vẫn từ tốn, đầm ấm như trước. Sau bao nhiêu năm, bây giờ mới gặp lại Bác, tôi ngồi, nghĩ liên miên, nghĩ chuyện ngày xưa, nhớ những lời Bác dặn dò, rồi tin Bác bị bắt, ho lao chết rồi bây giờ không ngờ lại trở về đây. Hôm ấy tôi không nói được chuyện riêng với Bác. Chúng tôi vào thăm Bác, và để bàn với Bác về công việc chuẩn bị Hội nghị Trung ương. Khi bàn công việc, Bác vẫn minh mẫn, khẩn trương. Tôi nhớ khi ấy Thường vụ chưa ấn định dứt khoát ngày họp của Hội nghị Trung ương mở rộng. Bác nói: “Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”. Bác tuy ốm yếu, nhưng dự họp suốt từ đầu tới cuối với Ban Thường vụ. Vì điều kiện sức khỏe, Bác không dự Hội nghị Trung ương được suốt. Nhưng Bác góp rất nhiều ý kiến. Bác rất sáng suốt và bình tĩnh. Quốc dân Đại hội khai mạc ở đình Tân Trào.

Bác được bầu vào trong Đoàn Chủ tịch. Từ khi trở về nước, đây là lần đầu tiên Bác tiếp xúc với một đại hội đại biểu nhân dân. Hôm ấy, Ban tổ chức giới thiệu Bác là Cụ Hồ Chí Minh, một nhà lão thành cách mạng. Nhiều đại biểu không khỏi ngạc nhiên vì chưa nghe thấy tên Hồ Chí Minh bao giờ. Nhưng một số người cũng đã thì thầm bàn tán về Bác mà người ta gọi là ông Ké Tân Trào. Mấy đại biểu kháo nhau: Cụ Nguyễn Ái Quốc đấy. Hồi ấy, chưa có tục vỗ tay. Nhưng khi nghe giới thiệu Bác, các đại biểu đều rất hân hoan… Đoàn đại biểu nhân dân Tân Trào đem gạo, đem bò, đem gà đến mừng Đại hội. Một ông già người Tày dắt một con bò đến tặng. Đồng bào ta đã bị chiến tranh bòn mót đến xương tủy, ai nấy đều tiều tụy, rách rưới. Đáng thương nhất là các em bé thiểu số gầy gò, vàng vọt. Chúng nó ở truồng tồng ngồng, theo người lớn đến chào Quốc dân Đại hội. Bác đến gần các cháu, chỉ vào chúng và nói với các đại biểu: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này. Chúng tôi đều cảm động. Câu nói ấy, về sau này Bác thường nhắc nhở luôn luôn”(2).

Nhà thơ Huy Cận kể: “Mở đầu đại hội, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, đã thay mặt Đảng đề ra chủ trương: nhân dân Việt Nam phải triệt để lợi dụng sự thất bại của phát xít Nhật mà nổi dậy giành lấy chính quyền từ tay Nhật và bọn bù nhìn tay sai của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, và ta phải đứng ở địa vị chủ nhân của nước nhà tiếp quân Đồng minh nếu họ vào tước vũ khí quân đội Nhật. Đại hội nhất trí hoan nghênh chủ trương của Đảng đề ra và quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Sau đó Quốc dân đại hội đã bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc, đứng đầu là Cụ Hồ Chí Minh. Ủy ban Dân tộc giải phóng có 15 người. Buổi chiều lúc đại hội sắp khai mạc, tôi và một số đồng chí ra trước cửa đình Tân Trào. Chúng tôi đang nói chuyện với nhau thì thấy một Ông Cụ mặc bộ quần áo cũ màu chàm, đội mũ cát két, ngồi xuống nền đình, dựa vào cột đình, sát phía đại biểu sắp họp. Ông Cụ thấy chúng tôi đang nói chuyện giơ tay ngoắt tôi lại và hỏi: “Đồng chí hoạt động ở tỉnh nào về?”. Tôi được anh em đại biểu khác cho biết đó là Cụ Hồ Chí Minh và cũng được anh em nói thầm cho nghe rằng: Cụ Hồ Chí Minh tức là Cụ Nguyễn Ái Quốc. Vì tôi mới bước vào hoạt động cách mạng chưa được bao năm, cho nên trong phút đầu tiên tiếp xúc với lãnh tụ, không khỏi bối rối. Tôi đáp lời một cách ngập ngừng: “Thưa Cụ, con mới hoạt động ba, bốn năm tại Hà Nội trong đám anh em trí thức, nhất là trí thức khoa học. Con cũng theo dõi Cụ và các anh đi trước, góp phần nhiệt huyết của mình vào phong trào...”. Ông Cụ liền mỉm cười và giơ tay bảo tôi ngồi xuống, thong thả nói qua giọng hơi mệt vì cơn sốt rét vừa qua: “Chú còn thanh niên, chú hoạt động trong anh em sinh viên trí thức là rất tốt. Còn làm cách mạng thì không phân biệt người trước người sau, người hoạt động lâu năm với người mới vào phong trào. Cốt nhất là có nhiệt huyết với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người mới vào phong trào mà làm việc hăng hái thì cũng có thể đóng góp cho sự nghiệp chung. Chú cứ yên tâm mà hoạt động với các đồng chí”. Tôi nhớ lúc đó Bác gầy, má hóp, trên trán nhìn rõ nếp nhăn, nhưng đôi mắt rất sáng, như cả tinh lực của Bác dồn vào đôi mắt”(3).

Đồng chí Trần Huy Liệu cũng kể: “Đại hội làm việc khẩn trương từ chiều 16 và suốt ngày 17. Sau khi đại hội đã thông qua những nghị quyết và sắp bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc thì có tin báo Cụ Hồ Chí Minh sắp lại thăm hội nghị. Cụ Hồ Chí Minh là ai? Trong các đại biểu có một số đã biết là ai rồi, nhưng cũng có một số chưa từng nghe biết bao giờ cả. Về phần tôi, thực tình ba tiếng “Hồ Chí Minh” mới đến với tôi lần đầu tiên, nhưng tôi đã biết ngay là ai.

Cả hội nghị chăm chú nhìn về phía trước. Rồi, trước mắt tôi, một người xắn quần, đội mũ nồi, tay chống gậy đi qua trước đình nhưng không vào thẳng hội nghị, mà lại rẽ xuống suối rửa chân rồi mới vào. Người không còn là một thanh niên tuấn tú như tôi đã thấy trong ảnh nữa, mà là một cụ già gầy ốm, da xanh nhợt, má hơi hóp vào, tuy vậy, vầng trán cao và đôi mắt trong sáng vẫn nổi bật lên. Cụ Hồ Chí Minh bước vào đình. Hội nghị vỗ tay vang dội. Cụ bắt đầu nói, nói về tình hình Nhật đầu hàng Đồng minh cùng công việc cấp tốc phải làm hiện nay.

Thực tình, lúc ấy, tôi chờ đợi những giọng nói hùng hồn hơn, đanh thép hơn, thì lại được nghe những lời giản dị rõ ràng với cách nói chậm rãi. Đại hội trở lại làm việc, bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Những người được đề cử đều có người giới thiệu quá trình công tác cách mạng một cách sơ lược. Đại hội bế mạc giữa làn không khí khởi nghĩa sôi sục, nhiều đại biểu hứa hẹn mau về địa phương để kịp lãnh đạo nhân dân phất cao cờ khởi nghĩa”(4). Đồng chí Vũ Quang là đại biểu dự đại hội nhớ lại: “Chủ trì cuộc họp là một ông già quắc thước, lanh lợi, được giới thiệu là ông Hồ Chí Minh. Bác Hồ của chúng ta còn xanh, yếu vì Bác vừa trải qua một cơn sốt rét.

Đồng chí Trường Chinh Tổng Bí thư của Đảng đã đọc báo cáo phân tích tình hình thế giới, trong nước, làm rõ là quân Đồng minh đang thắng lớn trên khắp các mặt trận và ngày thất bại của phát xít Đức, Italia, Nhật sắp đến. Nhật đã đầu hàng Đồng minh, thời cơ khởi nghĩa cả nước đã điểm. Bản báo cáo nêu rõ yêu cầu cấp bách cử ra ủy ban Dân tộc giải phóng để sau này khi giành được chính quyền sẽ trở thành Chính phủ Cách mạng lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Báo cáo cũng nêu lên 10 điều cần thực hiện để giành chính quyền, đảm bảo độc lập tự do cho đất nước và lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo về phong trào công nhân, đồng chí Trần Đức Thịnh báo cáo về phong trào nông dân, đồng chí Nguyễn Đình Thi báo cáo về văn hóa và trí thức, đồng chí Hoàng Đạo Thuý báo cáo về phong trào hướng đạo, đồng chí Vũ Oanh đã thay mặt cho đoàn báo cáo về phong trào cách mạng sôi nổi ở Hà Nội và được Bác Hồ và các đại biểu rất hoan nghênh. Sau đó các đại biểu Bắc, Trung, Nam lần lượt phát biểu ý kiến đều đồng tình với chủ trương khởi nghĩa trong cả nước để giành chính quyền và cử ra ủy ban Dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong buổi bế mạc, Bác Hồ đã nói với đoàn đại biểu Hà Nội là hát cho đại hội nghe một bài. Chúng tôi tập thể đứng lên hát bài “Quảng Châu công xã” của Đỗ Nhuận” (5).

Ông Hoàng Đạo Thúy cũng ghi lại: “Các đại biểu cầm tay nhau. Một số ở tù vừa ra, một số mới vượt ngục. Có đồng chí đi bộ từ Quảng Tây đến Côn Minh, rồi lại đi từ Côn Minh đến Tân Trào. Có đồng chí vượt mấy lần biên giới đi từ Xiêm về họp. Có những đồng chí, gian nan hơn nữa, từ Nam bộ tới, qua bao nhiêu cổng ngăn của Nhật, của gián điệp Pháp, của bù nhìn. Đầu bạc phơ, một bà cụ ngoài bảy mươi, cụ đã hy sinh cho cách mạng người con một của mình. Hôm nay cụ ngồi giữa đám thanh niên thành phố. Có những đại biểu miền Tây Bắc, Việt Bắc, có công nhân, có nông dân, binh sĩ, phụ nữ, một số trí thức: một bác sĩ trẻ tuổi tay vẫn cầm túi đồ mổ, từ Hà Nội ra đi, anh định lên chiến khu nhận công tác. Có cả một huyện quan, mấy tháng trước đây đã bỏ súng, nộp huyện cho chính quyền cách mạng.

Ngồi ở hàng thứ hai, một Ông Cụ đầu hoa râm, râu thưa, vẻ mặt phong trần, lại đang yếu mệt. Thế mà mọi người ai cũng chằm chằm nhìn vầng trán như vòm trời với đôi mắt long lanh của Cụ. Cụ Hồ đấy! Hồ Chủ tịch thay lời Uỷ ban nói quyết tâm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Đại hội đứng dậy hoan hô. Trông Ông Cụ không còn là Ông Cụ yếu mặc bộ áo chàm nữa, mà qua những giọt nước mắt cảm động, sung sướng mọi người nhìn thấy vị lãnh tụ tượng trưng cho đoàn thể, biểu hiện cho cả nhân dân Việt Nam chiến đấu tiến lên. Nước Việt Nam ta có chính quyền, nước Việt Nam ta có Chủ tịch! Cái đình lợp lá đã biến đâu mất, hiện lên một cảnh tượng cờ đỏ chói lọi sao vàng tỏa ánh đến tận chân trời miền Nam” (6).

Nữ đại biểu Thanh Thủy kể: “Vì tình hình gấp rút, đại hội chỉ họp có hai ngày. Tối hôm bế mạc, Bác mời đại biểu nâng cốc: “Rượu hôm nay chúng ta uống là rượu mà đội Giải phóng quân vừa hạ đồn Tam Đảo gửi biếu đấy!”. Mọi người vỗ tay hoan hô. Đại hội bừng bừng khí thế chiến thắng. Bác đề nghị đại biểu nào biết hát lên hát cho vui. Anh Hoàng Đạo Thuý đã mở đầu bằng bài Lửa trại. Tối hôm ấy, Bác đã như một người Cha của một đại gia đình, tạo cho đại hội một không khí thật thân mật, thật đoàn kết và thoải mái. Bác lần lượt chia quà tặng mọi người. Đến lượt chúng tôi, Bác hỏi: “Cô chú đã có cháu chưa?”. “Dạ chưa ạ”. “Thế tôi tặng bánh xà phòng thơm này, mau có cháu, tắm cho bé nhé!”. Mọi người cười ồ. Chúng tôi nắm chặt món quà quý, thấy tấm lòng Bác rộng mênh mông, thông cảm và thu phục được tất cả mọi người” (7).

Cảm động nhất là những mẩu chuyện về Bác Hồ trong những ngày ở Tân Trào mà đồng chí Trần Thị Minh Châu, phụ trách Văn phòng Uỷ ban Khu giải phóng vẫn nhớ từng chi tiết: “Những ngày gần tới Tổng khởi nghĩa, Bác ốm luôn và gầy lắm. Có lúc Bác không thể đi lại được. Mọi người ai cũng lo lắng, nhất là anh Văn chạy ngược chạy xuôi tìm cách chữa cho Bác. Ai cũng cố gắng bồi dưỡng cho Bác. Một hôm, nhân có người từ Hà Nội lên mang theo một ít hạt sen, tôi bàn với các anh nấu cháo gà với hạt sen cho Bác và được các anh đồng ý.

Tôi ninh một con gà với hạt sen và một ít sâm. Song, ninh xong rồi mà không ai dám mang lên cho Bác vì sợ Bác phê bình. Mọi người bàn chỉ có tôi là nữ nên mang lên cho Bác may ra Bác thông cảm và nhận. Tôi bỏ cháo vào cái cà mèn vuông rồi đưa lên. Bác mở cà mèn và suy nghĩ một lúc, Bác sẻ ra một ít xúc ăn. Đợi Bác ăn xong, tôi mới vào lán, Bác hỏi: “Cô mang cái này lên phải không?”. “Vâng thưa Bác, cháu mang lên nhưng Bác đang ngủ nên cháu để lại đấy chờ Bác!”. “Lần sau cô đừng làm thế này nữa. Bác không ăn đâu. Lần này cô mang lên Bác ăn một ít, còn đây cô mang về chia cho anh em”. “Thưa Bác, nhưng mà anh em đông lắm chia thế nào được! Cứ để lại đây chiều cháu hâm nóng để Bác ăn”. “Bác không ăn nữa đâu, anh em đông thì không chia được thật. Nhưng bây giờ cô cứ đưa về xem chú nào ốm yếu nhất thì đưa cho chú ấy ăn”. Tôi đành phải mang về và rất sợ các anh ở nhà phê bình vì đã bao lần đưa thức ăn cho Bác, Bác để dành anh em mà tôi vẫn mang về”(8).

Quốc dân Đại hội Tân Trào diễn ra trước khi đất nước ta còn chưa giành được độc lập, nhưng có thể coi là Hội nghị Diên Hồng lần thứ hai trong lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam. Đại hội đã biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối của toàn dân tộc vào sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện sự sáng tạo độc đáo về tư tưởng dân chủ và quyền lực toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần Tân Trào vẫn đang được Đảng ta phát huy, vận dụng thành công vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Chú thích:

1.  Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005, Tập 2, tr.758

2.  Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp- Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Tuyên Quang, H. 2009, tr.67

3.  Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 96

4.   Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 87

5.   Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 93

6.  Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Sđd, tr.873

7.  Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám. S.đ. d như trên, tr. 104

8.  S.đ. d như trên, tr. 117

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)