slider
Phát triển kinh tế số

CON ĐƯỜNG DẪN NGUYỄN ÁI QUỐC ĐẾN VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN

22 Tháng 01 Năm 2014 / 26893 lượt xem

Cuối thế kỷ XIX, đất nước ta bị rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách thống trị của thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu biểu nối tiếp nhau, song đều lần lượt thất bại. Nguyễn Tất Thành sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, sống gần gũi với những người nông dân trong một vùng đất được coi là “địa linh nhân kiệt”. Người đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào, sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng cho đồng bào.

        Ở tuổi thiếu niên, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với các sĩ phu yêu nước trong vùng và đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Người khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì theo Người, cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương “chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau". Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng cụ còn nặng cốt cách phong kiến.

        Từ những bài học lịch sử của các bậc cha, anh và khảo nghiệm trong thực tiễn, Nguyễn Tất Thành thấy rằng phải tìm con đường khác, con đường mới; phải đi ra nước ngoài nhưng theo một hướng khác. Đó là kết luận rất quan trọng của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Với lòng yêu nước mãnh liệt và một cách suy nghĩ táo bạo, một trí tuệ hết sức minh mẫn quyết khám phá bằng được con đường giải phóng dân tộc, tư tưởng quyết hướng sang nước Pháp tìm đường cứu nước sớm nảy sinh ở Người từ đó.

        Tháng 5-1909, Nguyễn Tất Thành từ Huế vào Bình Định để tiếp tục việc học tập, tháng 9-1909, Nguyễn Tất Thành đến Quy Nhơn, đến tháng 8-1910, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn. Tháng 9-1910 đến tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Thầy đã trao đổi với các thầy giáo và học sinh những suy nghĩ của mình về thân phận người dân mất nước nhiệm vụ cứu nước của mỗi người dân Việt Nam, trước hết là thanh niên có học thức. Vấn đề thầy Thành đặt ra cũng là nỗi băn khoăn chung của thầy và trò, nên đã có ngay được sự đồng cảm sâu sắc. Họ đã cùng nhau đào sâu chí căm thù và bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc, bày mưu tính kế đánh đuổi quân thù. Sau mấy tháng dạy học ở Trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành rời trường đi vào Sài Gòn, thực hiện hoài bão từng nung nấu là tìm cách đi sang Pháp và các nước phương Tây để xem "họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào chúng ta". Ngày 2-6-1911, Nguyễn Tất Thành bàn với một số người bạn thân về chuyến đi ra nước ngoài. Người nói: tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?  Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền mà đi, anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay: Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời Cảng Sài Gòn đi Mácxây, Pháp. Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên: Văn Ba.

       Tháng 6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi, với mục đích xem các nước trên thế giới làm như thế nào, rồi trở về giúp đồng bào. Nguyễn Tất Thành tìm hiểu cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp 1789, phong trào giải phóng của các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Nguyễn Tất Thành nhận thấy cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp nêu cao khẩu hiệu tự do, bình đẳng, nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thật sự cho quần chúng lao động “Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”(1).

        Về mục đích ra đi của mình, năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người gia trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy. Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”(2). Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(3).

        Để tiếp tục thực hiện mục đích đó, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, BồĐào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông… Đến đâu Người cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Một trong những cảnh ấy Người đã trông thấy ở Đaca (Dacar): “Đến Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể thả canô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”(4). Cảnh tượng đó làm cho Nguyễn Tất Thành rất đau xót. Người liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của mình. Họ cũng là nạn nhân của sự hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường Người đi qua, tạo nên ở Người mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.

Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních (Martinique) (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, Người có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Người vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Người đã đến thăm quận Brúclin (Brooklin) của thành phố Niu Oóc (New York). Người đi xe điện ngầm đến khu Háclem (Harlem) để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người da đen. ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột rất tàn bạo. Người cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận những kẻ phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này Người đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.

        Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Lơ Havơrơ, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, Người nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng Người đã tranh thủ học tiếng Anh, Nguyễn Tất Thành gửi thư liên hệ với cụ Phan Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thông báo tình hình sinh hoạt, học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan. Trong thư Nguyễn Tất Thành cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ Phan về tình hình thời cuộc. Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cơớc, phía tây Luân Đôn. Sau đó chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Cáclơtơn (Carlton), phố Hây Makét, một khách sạn sang nổi tiếng ở Luân Đôn.

        Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airơlen. Cũng trong thời gian này Người được đọc một tờ báo Anh đưa tin về ông Terence Mac Swiney, Thị trưởng thành phố (Cork), nhà đại ái quốc Airơlen, đấu tranh chống đế quốc Anh, bị bắt. Trong tù ông đã tuyệt thực. Ông nằm nghiêng một phía, không ăn, không cử động hơn 40 ngày và hy sinh. Hàng ngàn người Airơlen lưu vong nối nhau thành hàng dài trên đường phố Luân Đôn đưa tiễn ông Mac Swiney về yên nghỉ tại Cork. Nguyễn Tất Thành hết sức xúc động và cảm phục tinh thần bất khuất của ông: “Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Coóc sẽ không bao giờ đầu hàng”(5).

        Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Đây là một dịp để Người tìm hiểu sâu về cách mạng tư sản Pháp, về công xã Pari năm 1871 và về cách mạng XHCN tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức lại Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp những Việt kiều yêu nước trên đất Pháp. Đồng chí hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và tham gia Đảng xã hội Pháp. Với tinh thần học tập không biết mệt mỏi và ý chí phấn đấu kiên cường vượt qua những thử thách của cảnh nghèo túng, thiếu thốn trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tiến những bước dài trong quá trình tìm tòi con đường cứu nước. Chính tại đây, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã tìm đến đỉnh cao của trí tuệ thời đại là Chủ nghĩa Mác-Lênin.

        Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã mở ra thời kỳ mới trong phong trào cách mạng các nước cộng với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (1919) làm cho cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trong Đảng xã hội Pháp diễn ra gay gắt: tiếp tục theo Quốc tế thứ hai (tức là con đường cải lương); hay là đi theo Quốc tế thứ ba của Lênin (con đường cách mạng mà Mác-Ăngghen đã vạch ra). Nhờ tham gia cuộc đấu tranh trong Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con đường đúng.

        Khi được đọc “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động cách mạng của Người, đồng thời là bước ngoặt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản.

        Bằng hành động lịch sử gia nhập Quốc tế cộng sản và thành lập Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mở đường cho cách mạng Việt Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng về đường lối. Bằng việc làm ấy, Nguyễn Ái Quốc đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới. Bằng việc làm ấy, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người Cộng sản Việt Nam đầu tiên đã gắn chặt ngọn cờ độc lập dân tộc với ngọn cờ CNXH, mở đường cho chủ nghĩa Mác-Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin.

        Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp - “tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. Dưới bản Yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên Nguyễn Ái Quốc. Bản Yêu sách gồm tám điểm: “1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”. (6).

        Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy,

như sau này Người đã viết: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”(7) và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(8).

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Người nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” (9). Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ sở tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin.

        Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua (Pháp), Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách là đại biểu chính thức và được mời phát biểu. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa…”. Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời kêu gọi thống thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!” (10). Tại đại hội lịch sử này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin. 40 năm sau nhìn lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa” (11).

        Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến. Bước đầu Người rút ra kết luận quan trọng là: ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân. Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Sau này Người đã khái quát thành một chân lý: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (12). Từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (13).

        Việc Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và sau đó ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam đã thúc đẩy các phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam phát triễn đúng hướng – lãnh đạo cách mạng Việt Nam giải phóng dân tộc.

 

Chú thích:

(1) Nguyễn Ái Quốc: Đường Cách mệnh, các tổ chức tiền thân của Đảng, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, 1977, tr 32-33.

(2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập 1, tr.477.

(3) Báo Nhân dân, số: 4062, ngày 18-5-1965.

(4) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.23.

(5) Sđd, tr.29.

(6) Sđd, tr.29.

(7) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập 1, tr. 416.

(8) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.33.

(9) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập.10, tr. 127.

(10) Sđd, tập 1, tr. 23-24.

(11) Sđd, tập 10, tr.241.

(12) Sđd, tập 1, tr. 266.

(13) Sđd, tập 9, tr. 314.

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 20,108,302

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)