Đồng chí Vũ Kỳ - người thư ký đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đỗ Hoàng Linh
Đồng chí Vũ Kỳ (1921-2005) tên khai sinh là Vũ Long Chuẩn, nguyên quán ở huyện Thường Tín, Hà Nội. Đồng chí sinh ra trong một gia đình nghèo có 5 anh em nên phải chuyển nhà thuê liên tục. Khi đang là học sinh trường Bưởi, Vũ Long Chuẩn đã tham gia hoạt động cách mạng trong tổ chức Đoàn thanh niên phản đế Hà Nội và vừa tròn 19 tuổi, Vũ Long Chuẩn đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1941, Vũ Long Chuẩn thoát ly gia đình cùng một số đồng chí khác sang Quảng Tây, Trung Quốc dự lớp huấn luyện cán bộ quân chính chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, tại đây Vũ Long Chuẩn đã gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp. Kết thúc lớp huấn luyện, Vũ Long Chuẩn được cử vào Ban binh vận của Trung ương Đảng. Năm 1943, Vũ Long Chuẩn bị địch bắt nhưng vì không có chứng cớ nên sau mấy tháng lại được trả tự do. Vũ Long Chuẩn chuyển công tác lên Sơn Tây, làm binh vận binh lính Âu nhưng vẫn bị mật thám theo dõi và cuối năm đó lại bị bắt giam ở Hỏa Lò Hà Nội. Đồng chí đã hoạt động tích cực trong chi bộ nhà tù, đấu tranh bảo vệ cán bộ và liên lạc với cơ sở bên ngoài để xây dựng kế hoạch vượt ngục. Tháng 3/1945, Vũ Long Chuẩn cùng Trần Đăng Ninh và một số đồng chí khác vượt ngục trở về đội Việt Minh Hà Nội.
Một tuần sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội, Người muốn tìm một thư ký giúp việc. Tổ chức Đảng giới thiệu với Người ba nhân sự là: Trần Quang Huy, Vũ Long Chuẩn và Hoàng Tùng. Sau khi cân nhắc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Vũ Long Chuẩn (lúc đó bí danh hoạt động là Cần). Buổi tối ngày 27/8/1945, đồng chí Trần Đăng Ninh (bí danh lúc đó là Đáng) thông báo Vũ Long Chuẩn được chọn làm thư ký cho cụ Nguyễn Ái Quốc và đưa đồng chí đến ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Vũ Long Chuẩn kể: “Buổi tối hôm ấy, anh Đáng dẫn tôi lên gác, vào một phòng rộng. Trong phòng có 6, 7 người đang họp, không thấy cụ nào. Tôi chỉ nhận ra đồng chí Trân, đồng chí Đệ (tức đồng chí Nguyễn Khang) và anh Dương (tức đồng chí Võ Nguyên Giáp). Tôi chưa kịp hỏi chuyện đồng chí Trân, đồng chí Đệ thì anh Dương đã vui vẻ gọi: Ô kìa U-sao-ty! Đó là tên gọi của tôi hồi cuối năm 1941 khi tôi được chọn qua biên giới học quân chính gặp anh. Vừa lúc đó, Cụ ở buồng bên sang. Đồng chí Đáng giới thiệu: “Thưa, người Cụ bảo tìm đây ạ”. Cụ nhìn tôi, cặp mắt hiền từ: “Tên chú là gì?”. “Thưa, là Nguyễn Cần ạ!”. “Cẩn à! Tốt! Cẩn là cẩn thận. Thôi chú đi nghỉ. Sáng mai ta làm việc”. Tôi bàng hoàng. Từ đột ngột đến bàng hoàng. Mà không bàng hoàng sao được! Buổi tối đáng ghi nhớ của đời tôi đã diễn ra ngắn ngủi như vậy. Thế là tôi đã được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, hình ảnh thiêng liêng đối với lớp đảng viên chúng tôi hồi trước cách mạng mà trong những ngày ở tù Hỏa Lò, đêm đêm tôi vẫn thường mơ.
Nguyễn Ái Quốc thực, khác hẳn với Nguyễn Ái Quốc trong mơ. Hiền từ và vô cùng giản dị. Sáng hôm sau gặp tôi, Cụ lại hỏi: “Chú tên gì nhỉ?”. Lần này tôi mới trấn tĩnh nói to hơn và rõ hơn tối qua. Mà không biết sao lúc ấy tôi không dám nói lại, khi nghe Bác nói sai tên mình: “Thưa Cụ, là Nguyễn Cần ạ!”. Tôi nói chậm và rõ chữ Cần. “Cần à, tốt, Cần Kiệm, Liêm, Chính càng tốt!”. Chắc cụ nhớ ra tối hôm qua nghe nhầm tên tôi là Cẩn. “Chú có biết tiếng Pháp không?”. “Thưa cụ, biết ít ạ”. “Thế chú ngồi đây, mình đọc cho viết cái này”. Nỗi lo của tôi bớt dần vì Cụ hiền hậu, gần gũi và thân thiết quá! Trong giây lát, tôi tranh thủ ngắm cụ. Người gầy, mắt sáng, râu thưa, trán rộng và cao. Đặc biệt hai vành tai không đều nhau. Những đường gân nổi ở trên thái dương. Cụ mặc áo sơ mi và quần đùi nâu đã bạc màu. Những giờ phút đầu tiên, tôi được gặp và làm nhiệm vụ người giúp việc của Cụ Nguyễn Ái Quốc như thế đó. Mùa thu ấy, tôi vừa bước vào tuổi 25”(1).
Những đêm đầu tiên ở 48 Hàng Ngang, Nguyễn Cần đã được được chứng kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh miệt mài soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Đến chiều ngày 31/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu thư ký Nguyễn Cần cho xem sơ đồ địa điểm tổ chức cuộc mittinh tại vườn hoa Ba Đình.
Người nhắc ban tổ chức phải chú ý cả nơi vệ sinh cho đồng bào và dặn nếu trời mưa thì kết thúc sớm đề tránh cho nhân dân bị ướt, nhất là đối với các cụ già và cháu nhỏ. Tối 30 Tết Bính Tuất 1946, Tết độc lập đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu thư ký Nguyễn Cần đưa Người đi thăm một số gia đình tiêu biểu cho Tết nghèo- Tết vừa- Tết khá- Tết sang của Thủ đô. Là người có kinh nghiệm hoạt động bí mật trong nội thành Hà Nội nên Nguyễn Cần đã chọn địa điểm đến bằng nhữngđường ngắn nhất và an toàn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn: cách bảo vệ tốt nhất là bí mật và bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm một phu kéo xe nghèo đang ốm ở phố Sinh Từ, nhà một viên chức bình thường ở gần ga Hàng Cỏ, nhà buôn bán ở phố Hàng Vải, còn đến mấy nhà quan to thì gọi cửa không ai mở nên bác cháu quay về số 8 Vua Lê. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Cần cải trang thành cụ đồ và cậu công tử đi đón giao thừa ở đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm cùng người dân Thủ đô trong đêm tất niên độc lập đầu tiên.
Từ sau ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ luôn bị các thế lực phản động, quân Pháp, quân Tưởng bao vây, gây sức ép, đe dọa dùng vũ lực, ám sát, bắt cóc các cán bộ lãnh đạo của ta nên Nguyễn Cần ngoài công việc thư ký cũng kiêm cả công tác bảo vệ, phòng gian. Từ khách sạn Metropol và nhà Ngân hàng, quân Pháp giám sát chặt chẽ tầng hai Bắc Bộ Phủ, nơi có phòng làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thường khi Người ra về, xe ô tô sẽ đưa đến nhiều địa điểm khác nhau. Có khi đến một chỗ hẹn trước thì Nguyễn Cần đưa Người chuyển sang xe khác ra ngoại thành, còn chiếc xe quen thuộc vẫn chạy về nơi ở chính thức của Người ở số 8 Vua Lê. Đầu tháng 11/1946, sau khi quân Pháp chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn thì tăng cường khiêu khích trắng trợn, ưa dùng súng đạn hơn, tình hình căng thẳng và nguy hiểm nên Nguyễn Cần cùng các đồng chí đi tiền trạm để chọn một ngôi nhà bí mật ở gần bến xe Hà Đông và tối ngày 26/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức chuyển đến ở và làm việc tại đây. Chỉ một tuần sau, Nguyễn Cần và các đồng chí lại tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến địa điểm khác tại làng Vạn Phúc.
Sáng ngày 18/12/1946, Nguyễn Cần được giao nhiệm vụ ra Bắc Bộ Phủ hỏi việc thương thảo với J. Sainteny, đại diện của Pháp, thì thấy quân Pháp đã chặn nhiều ngả đường bằng xe bọc thép, đặt các bốt canh phòng có súng máy khắp nơi, còn nhân dân đi sơ tán rất đông, để lại nhiều khẩu hiệu trên các bức tường. Khi quay về Vạn Phúc, Nguyễn Cần báo cáo lại với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người hỏi: “Khẩu hiệu Thà chết không làm nô lệ có nhiều không?”. “Thưa, ở mạn phố Hàng Ngang, Hàng Đào hầu như nhà nào cũng có”(2). Đêm hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thức rất khuya với ngọn đèn dầu, chiếc bút sắt học sinh và tờ giấy, Người bắt đầu viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Chiều tối hôm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng thư ký và đội bảo vệ thu dọn tài liệu, hành lý bắt đầu di chuyển lên chiến khu Việt Bắc.
Dịp Tết cổ truyền Đinh Hợi 1947 đến đúng vào lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, rất khó khăn, thiếu thốn. Chiều tối 30 Tết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi họp Hội đồng Chính phủ nhưng vì trời mưa, đường trơn nên xe ô tô bị sa lầy, phải nhờ người khiêng giúp. Sau khi họp xong, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại sang trụ sở Đài tiếng nói Việt Nam tại Chùa Trầm để đọc thơ chúc mừng năm mới đúng giao thừa.
Vì trời mưa to, đường càng lầy lội và trơn trượt, thư ký Nguyễn Cần kể: “Nhiều lúc bánh xe quay tít trên mặt đường mà xe vẫn đứng nguyên một chỗ. Đành phải xuống đẩy. Đúng là tối như đêm 30. Ánh đèn pha chiếu phía trước nhoà đi vì mưa nặng hạt. Lo ngại nhất là lúc lên dốc. Nhiều lúc thấy máy nổ mà xe không thấy tiến, có lúc lại muốn lùi nữa, tôi buột miệng kêu lên: “Thôi chết rồi!”. Mỗi lúc thấy xe khó đi, đồng chí lái xe vất vả, tưởng không vượt qua được, tôi lại quen miệng kêu: “Thôi chết rồi!”. Bác cũng sốt ruột và quay sang nói với tôi: “Chú này sao chết nhiều lần thế!”(3).
Rồi xe cũng vẫn đi trong mưa to, gió rét, vượt qua những chặng đường bùn lầy, vòng quanh Xuân Mai rồi rẽ xuống chùa Trầm gần 12 giờ đêm, vừa kịp thời gian để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước. Đến đầu tháng 3/1947, tình hình chiến sự lan đến nơi làm việc nên anh em đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Sơn Tây, vượt sông sang Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ. Sáng sớm ngày 6/3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với đội bảo vệ, thư ký và nói: “Bây giờ chiến tranh mở rộng, chúng ta phải sinh hoạt quân sự hoá. Đến ở, giữ bí mật. Chuyển nhanh, không để lại dấu vết. Mỗi chú may một chiếc ba lô để đựng những thứ cần thiết, tiện thể may luôn cho Bác một cái để Bác đeo chiếc máy chữ”(4). Sau đó, Người đặt tên cho mấy anh em phục vụ các bí danh là: Trường- Kỳ- Kháng- Chiến- Nhất -Định- Thắng- Lợi và giải thích: “Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của toàn dân, toàn Đảng ta là đưa cuộc kháng chiến này đi đến thắng lợi cuối cùng. Bác đặt tên cho các chú như vậy là để hàng ngày gọi các chú là Bác nhớ đến nhiệm vụ này và phải làm cho tốt”(5). Nguyễn Cần là người thứ hai trong 8 người được đặt tên theo khẩu hiệu đó, thế là cái tên Vũ Kỳ chính thức được sử dụng.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước sang giai đoạn tổng phản công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi ý cho các anh em cán bộ văn phòng đi xuống cơ sở để thâm nhập thực tế và học tập, rèn luyện phát huy khả năng cá nhân, đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, thư ký Vũ Kỳ rời ATK vào vùng Hà Nội bị tạm chiếm. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương thành lập đội thanh niên xung phong (TNXP) tháng 7/1950, Trung ương Đoàn thanh niên cứu quốc tổ chức được đội TNXP đầu tiên để vận chuyển lương thực, súng đạn, sửa chữa cầu đường, phục vụ chiến dịch và lập được nhiều thành tích, tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề về tổ chức. Để chấn chỉnh việc này, sau khi thư ký Vũ Kỳ học lớp chỉnh Đảng tại Việt Bắc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm đội trưởng một đội TNXP mới thành lập dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương và Chính phủ, cứ sau một tuần hoặc 10 ngày lại về báo cáo tình hình với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, hai đội TNXP thống nhất làm một, sắp xếp lại biên chế, chính thức mang tên Đoàn TNXP Trung ương do đồng chí Vũ Kỳ làm Đoàn trưởng với một giấy chứng minh đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp và theo yêu cầu của Người, đồng chí Vũ Kỳ vẫn đều đặn về gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo công tác và nhận chỉ thị…
Tháng 4/1956, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức Trung ương điều động đồng chí Vũ Kỳ về Văn phòng Phủ Chủ tịch làm thư ký giúp việc Người và kiêm chức Chánh Văn phòng Phủ Chủ tịch. Trong 13 năm liên tục đảm nhận vị trí giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ 1956 đến 1969) tại Phủ Chủ tịch Hà Nội, đồng chí Vũ Kỳ đã trở thành một người thư ký đặc biệt, cần mẫn, đa năng. Vũ Kỳ chuyên ghi lại những nội dung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc cho chép hoặc góp ý kiến vào những bài Người đã đánh máy sẵn; soạn thảo các thư khen cá nhân, tập thể, các địa phương rồi trình Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt; viết thư thông báo tình hình sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Bộ Chính trị trong thời gian Người chữa bệnh; tổ chức xác minh những tấm gương người tốt-việc tốt để Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng huy hiệu… Bên cạnh việc văn thư, hành chính, Vũ Kỳ còn sắp xếp chương trình họp hàng ngày, lịch tiếp khách, lịch phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách khoa học, cẩn thận nhưng thoải mái, tự nhiên để các cuộc đón tiếp, gặp gỡ nhân dân và khách quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh có kết quả tốt dẹp.
Trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều chuyến đi thăm các địa phương, cơ sở, đơn vị, cơ quan, nhà máy, đồng ruộng, vườn trẻ và thư ký Vũ Kỳ luôn tháp tùng Người. Thực hiện chiến lược ngoại giao hòa bình, hữu nghị, đoàn kết của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có nhiều chuyến thăm chính thức các nước dân chủ anh em và thư ký Vũ Kỳ đều được đi theo Người để phục vụ, ghi chép tài liệu và cũng là nhân chứng trong nhiều chuyến đi, sự kiện không công khai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1957, vào những tháng Năm có sinh nhật Người, thư ký Vũ Kỳ thường tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác các tỉnh và nước ngoài để tránh việc chúc tụng.
Những năm cuối cùng, sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh suy giảm nên thư ký Vũ Kỳ còn đặc biệt quan tâm chăm lo sức khỏe cho Người. Ngày làm việc của thư ký Vũ Kỳ thường từ sáng sớm đến tối mịt, có hôm tận 12 giờ đêm mới về nhà ăn tối sau đó lại quay vào Phủ Chủ tịch ngủ vì không yên tâm khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nghỉ một mình trong ngôi nhà sàn vắng lặng. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có những đợt điều trị dài ngày ở Trung Quốc vào những năm 1966, 1967, 1968 và thư ký Vũ Kỳ luôn theo sát phục vụ Người kể cả những dịp nghỉ lễ Tết.
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Tài liệu tuyệt đối bí mật (Di chúc) nhưng không muốn để ai biết vì sợ ảnh hưởng đến tư tưởng, tinh thần của quân dân ta trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược đang căng thẳng, ác liệt. Sau khi viết xong bản dự thảo đầu tiên, Người giao tài liệu này cho thư ký Vũ Kỳ và dặn đúng ngày 10/5 của các năm sau thì giao lại cho Người chỉnh sửa. Những giờ phút cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có mặt người thư ký tận tụy túc trực bên cạnh. Vì sự mất mát quá lớn, chưa muốn tin sự thật là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mất nên những anh em phục vụ Người vẫn cần mẫn và chu đáo đảm đương mọi công việc hằng ngày như thể Người chỉ đi công tác xa ít hôm. Khu Phủ Chủ tịch và ngôi nhà sàn vẫn được bảo vệ, bảo quản chu đáo, cẩn thận: cửa vẫn được mở, đồ đạc trong nhà vẫn được sắp đặt ngay ngắn, sạch sẽ như thường ngày … Nỗi đau không cùng của một “tiểu đồng” (đồng chí Vũ Kỳ vẫn tự coi mình như vậy) khi phải vĩnh biệt người thầy, vị lãnh tụ, người cha tinh thần vô cùng hiền từ, thân thiết khiến cho thư ký Vũ Kỳ và tất cả Văn phòng ngơ ngác, hụt hẫng một thời gian khá dài.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, thư ký Vũ Kỳ đã “tận tụy phục vụ” Người, nay đồng chí Vũ Kỳ đã nén đau thương để tiếp tục tận tụy cống hiến góp phần vào sự nghiệp giữ gìn và phát huy giá trị di sản Hồ Chí Minh. Khi Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Vũ Kỳ được cử vào làm Ủy viên Ban phụ trách xây dựng Lăng Bác. Trong thời gian xây dựng công trình Lăng, đồng chí Vũ Kỳ vẫn tiếp tục đảm đương các công việc khác tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch để Khu Di tích chính thức mở cửa đón khách tham quan, học tập đúng dịp kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh lần thứ 85 ngày 19/5/1975. Sau khi Lăng Bác hoàn thành, đồng chí Vũ Kỳ lại bắt tay vào nhiệm vụ chuẩn bị xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh. Theo Quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Vũ Kỳ làm Ủy viên Ban phụ trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh và là Giám đốc đầu tiên. Để chuẩn bị công việc chuyên môn, khoa học và nội dung trưng bày cho Bảo tàng, đồng chí Vũ Kỳ đã lấy Khu Di tích Phủ Chủ tịch làm nơi tiến hành các công tác nghiệp vụ để cho Bảo tàng hoạt động. Sáng ngày 19/5/1990, đúng dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức trọng thể lễ khánh thành nhưng đồng chí Vũ Kỳ xin nghỉ công tác đúng ngày sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh để giữ mãi kỷ niệm thiêng liêng về Bác Hồ kính yêu.
Tuy nghỉ công tác lãnh đạo, nhưng đồng chí Vũ Kỳ vẫn miệt mài nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài những góp ý cho các cuốn sách xuất bản về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Vũ Kỳ còn tham gia nhiều hội thảo khoa học, viết 8 cuốn sách về Người, tổ chức các buổi kể chuyện Bác Hồ với những tổ chức Đảng, Đoàn, Đội và đóng góp nhiều ý kiến giá trị cho công tác bảo tồn và phát huy các di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn quốc. Phòng làm việc của đồng chí Vũ Kỳ trong Khu Di tích Phủ Chủ tịch vẫn đều đặn sáng đèn hàng ngày từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Đối với đội ngũ cán bộ Khu Di tích Phủ Chủ tịch, đồng chí Vũ Kỳ cũng đặc biệt quan tâm nên hàng tuần, đồng chí đã tổ chức những buổi nói chuyện về Bác Hồ ngay tại tầng dưới ngôi nhà sàn. Các buổi nói chuyện của đồng chí Vũ Kỳ đã truyền thêm động lực nghiên cứu, học tập, cống hiến cho những người được vinh dự trực tiếp bảo quản và phát huy tác dụng di tích quốc gia đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đồng chí Vũ Kỳ là đại biểu Quốc hội khóa VIII và được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì, Bằng khen của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều kỷ niệm chương khác. Nhưng chắc chắn điều thư ký Vũ Kỳ vẫn thiết tha mong muốn chính là nhiệm vụ thiêng liêng duy nhất: “Mãi mãi bên Người!”(6).
Chú thích:
1. Càng nhớ Bác Hồ. Nxb Thanh Niên 1999, tr 12
2. Chuyện kể về Bác Hồ, những chặng đường trường kỳ kháng chiến. Nxb Chính trị quốc gia 2001, tr 56 3. S.đ.d nt, tr 68
4. S.đ.d nt, tr 89
5. S.đ.d nt, tr 90 6. Lời ghi sổ tang của đồng chí Hoàng Tùng, lưu tại Khu Di tích Phủ Chủ tịch