slider

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tình hình hiện nay

23 Tháng 05 Năm 2020 / 1606 lượt xem

Nguyễn Văn Công

GĐ. Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của cán bộ. Theo quan điểm của Người, cán bộ đảng viên là nhân tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ ta. Người khẳng định: “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(1) cho nên việc lựa chọn cán bộ phải tuân theo những tiêu chuẩn nhất định như: có đạo đức cách mạng nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân; có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, hiểu biết nhân dân, luôn chú ý đến lợi ích của nhân dân; người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, có trí tuệ, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi,... Tuy nhiên, có thể thấy, dù yêu cầu của lịch sử, nhiệm vụ của cách mạng, quyền lợi của nhân dân ở mỗi thời điểm có thay đổi, tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh vào hai chữ Đức và Tài. Bởi cán bộ có đức thì mới chí công vô tư trong cách làm việc và cán bộ cần có tài, đủ năng lực để lãnh đạo nhân dân. Trong bài nói chuyện với giáo viên, sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”(2). Trên nền tảng giáo dục chính trị và tư tưởng tốt, phải nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn cho cán bộ đảng viên nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do sự nghiệp cách mạng đặt ra.

Đức và tài là hai phẩm chất không thể thiếu của một người cán bộ, đảng viên tốt. Hai phẩm chất này có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau và tạo tiền đề cho nhau phát triển. Đức là nền tảng của tài, định hướng cho tài năng phát triển còn tài là thành tố góp phần tạo nên đức, hoàn thiện đức. Do đó, cần phải trang bị cả hai phẩm chất này cho người cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, trong hai phẩm chất đó, đức là gốc bởi đạo đức có ý nghĩa quyết định thái độ, lập trường chính trị, tư tưởng và quyết định mục tiêu lý tưởng mà người cán bộ, đảng viên phấn đấu.

Đức và tài song hành tạo nên năng lực của cán bộ trong công tác. Nhưng không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay nên khi phân công công tác cho cán bộ hay lựa chọn cán bộ, phải quán triệt điều này. Bác căn dặn: “Trước khi trao công tác, cần phải bàn kỹ với cán bộ. Nếu họ gánh không nổi, chớ nên miễn cưỡng trao việc đó cho họ. Khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác” hay “Cân nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cân nhắc không xem xét kỹ. Khi cân nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cân nhắc lên. Một cán bộ bị nhấc lên, thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”(3).

Không chỉ nhận thức đúng đắn về vai trò của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn không ngừng tự rèn luyện để trở thành người cộng sản có đạo đức sáng ngời. Người còn thường xuyên chú ý tới việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng ấy cho lớp lớp thế hệ cán bộ, đảng viên Việt Nam. Kể từ lớp huấn luyện cán bộ đầu tiên vào những năm 1925-1927 tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người rất quan tâm đến nội dung giảng dạy về đạo đức của người cán bộ, đảng viên, trong đó coi đạo đức là gốc. Bài giảng đầu tiên của Người tại lớp huấn luyện này là bài “Tư cách người cách mạng” với 23 điều cụ thể để rèn luyện phẩm chất đạo đức cho người cán bộ cách mạng. Cuối năm 1940, trước khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở nhiều lớp huấn luyện các thanh niên yêu nước của tỉnh Cao Bằng tại Tĩnh Tây (Trung Quốc) để đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt cho việc xây dựng Việt Minh. Trong những bài giảng cho lớp học này, nội dung rèn luyện phẩm chất đạo đức người cán bộ cách mạng cũng luôn luôn được Người nhấn mạnh.

Nội dung đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục cho cán bộ, đảng viên chính là nền tảng để các lớp cán bộ cách mạng Việt Nam học hỏi, rèn luyện, phấn đấu. Nhờ vậy, khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời, số lượng đảng viên còn rất ít, nhưng sau 15 năm đã phát triển lên 5.000 đảng viên, trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng Việt Nam. Họ đã thức tỉnh triệu triệu người cùng giác ngộ cách mạng, đứng lên tự giải phóng, lập lên một kỳ tích vẻ vang - cách mạng Tháng Tám 1945 - đập tan hai tầng xiềng xích là thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật nhào chế độ quân chủ phong kiến lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc. Có được thành tích đó là nhờ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã dày công rèn luyện, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên với phẩm chất đạo đức cách mạng sáng ngời, một lòng vì nước, vì dân, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Hai năm sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” để giáo dục cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng được một đội ngũ cán bộ trung kiên, không bị cám dỗ, gục ngã trước chủ nghĩa cá nhân. Người đã chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cách phòng tránh và sửa chữa những sai trái trong đạo đức, phong cách của người cán bộ, đảng viên nảy sinh từ khi Đảng cầm quyền. Người cho rằng khuyết điểm lớn nhất của người cán bộ, đảng viên là chủ nghĩa cá nhân. Nó là “một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh nguy hiểm”(4). Đó là bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa, óc lãnh tụ, kéo bè, kéo cánh... “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng”(5). Những khuyết điểm sai lầmđó hết sức nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng, của sự nghiệp cách mạng, vì nó làm cho quần chúng hoang mang, còn những kẻ cơ hội thì lợi dụng nó để đạt mục đích tự tư tự lợi, bọn phản động thì khuếch trương, tô vẽ thêm cho nó để hạ uy tín Đảng ta, phá hoại sự đoàn kết gắn bó giữa Đảng và nhân dân.

Kháng chiến chống Pháp thành công, miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng, còn ở miền Nam cuộc đấu tranh giải phóng vẫn còn tiếp tục. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước càng đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu cao độ của đội ngũ cán bộ đảng viên. Tuy nhiên, trong những năm miền Bắc khôi phục kinh tế, văn hoá xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, tâm trạng thời bình, biểu hiện suy thoái và cá nhân chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ đảng viên đã không dừng lại ở hiện tượng đơn lẻ mà đã trở thành căn bệnh, trở thành nguy cơ của Đảng. Nhận thức rõ những gian nan, trắc trở, những khó khăn phức tạp của chặng đường trước mắt, và sớm tiên liệu được tình hình, tháng 12/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng, chỉ rõ tác hại của suy thoái đạo đức cách mạng, đồng thời nêu rõ những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh đó. Theo Người, lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng. Vì vậy, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào, người cán bộ đảng viên cũng phải kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, gương mẫu trước quần chúng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân.

Nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (03/02/1930 - 03/02/1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bài viết này của Bác chứa đựng những lời rất tâm huyết dành cho cán bộ, đảng viên, thể hiện ba nội dung quan trọng:

Một là, nâng cao đạo đức cách mạng là nhân tố bảo đảm thắng lợi, tạo lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng.

Hai là, chỉ ra những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong Đảng và ở mỗi đảng viên, cần phải quét sạch để nâng cao đạo đức cách mạng.

Ba là, nêu lên những biện pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả để thực hiện trong cuộc đấu tranh nhằm quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều quan trọng là phải vạch rõ căn nguyên sâu xa của những khuyết điểm, sai lầm mà các cán bộ, đảng viên mắc phải và tìm ra phương sách sửa chữa. Người cho rằng: “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, nói chung thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn còn một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa v.v.. Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng”(6). Do vậy, phải giáo dục cán bộ, đảng viên kiên quyết sửa chữa những thói xấu và làm cho mất hẳn các chứng bệnh đó. Còn “các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”. Hiểu được những sai lầm, khuyết điểm về mặt đạo đức của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh xử lý một cách bình tĩnh, khoa học, kiên quyết và triệt để, nhưng đầy tính nhân ái. Người kiên trì giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để họ có lòng bao dung, nhân ái, chí công, vô tư, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, rũ sạch chủ nghĩa cá nhân, thấm nhuần đạo đức cách mạng. Nhờ đó, sợi dây nối liền giữa Đảng với dân được tạo nên bằng chất liệu bền chắc là “đạo đức và tài năng của người cán bộ Cụ Hồ”, đã làm cho cỗ máy cách mạng Việt Nam chạy đều, chạy nhanh, đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đến thắng lợi.

Rõ ràng chuẩn mực đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nước ta và coi đó là “cái gốc” là hoàn toàn chuẩn xác. Nó là phương hướng đúng đắn, là yếu tố trọng yếu bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và hiện vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và dân tộc ta.

Cho đến hôm nay, sau 1/3 thế kỷ đổi mới đất nước, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Song chúng ta cũng còn không ít hạn chế, khuyết điểm mà nguyên nhân chính là do mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với việc tổ chức chỉ đạo nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với Đảng và Nhà nước ta còn nhiều mới mẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong đó có những hạn chế, khuyết điểm trầm trọng về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm nhức nhối xã hội. Những hạn chế khuyết điểm này biểu hiện dưới các hình thức trực tiếp và gián tiếp, dưới nhiều tệ nạn như: quan liêu, vô trách nhiệm, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí thời gian, tiền bạc của cải của nhà nước và nhân dân. Những con sâu mọt của các tệ nạn đó đã cố tình quên đi lời dạy “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì tự tư, tự lợi sẵn sàng đi ngược lại truyền thống và lợi ích của dân tộc, làm tổn hại đến văn hoá, môi trường và kinh tế của đất nước. Chúng lợi dụng chức quyền, sẵn sàng tìm mọi cách để mưu cầu lợi ích riêng, thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.

Hậu quả mà những khuyết điểm, hạn chế nói trên gây ra là vô cùng lớn. Trong đó, điều đáng lo ngại là gây ra tâm trạng hoang mang trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, vào mục tiêu tốt đẹp của chế độ ta. Đúng như Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII đã nhận định: “Một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công; quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa, địa vị, cơ hội, kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết nội bộ trầm trọng. Đáng chú ý là biểu hiện tiêu cực này đang có chiều hướng phát triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ”(7). Những đối tượng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo và đề ra biện pháp giáo dục, xử lý khi cách mạng mới giành chính quyền được hai năm nhưng hiện nay nó diễn ra ở quy mô, mức độ nghiêm trọng và tác hại lớn hơn nhiều.

Với quyết tâm chữa trị tận gốc tệ nạn, căn bệnh nói trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Các nghị quyết tiếp theo của Đảng cũng như văn kiện của Quốc hội, của Chính phủ đều thể hiện khá đầy đủ ở tầm vĩ mô về chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay là: “Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc”. Cán bộ, đảng viên khi đã có đức thì sẽ có bản lĩnh chính trị vững vàng để vượt qua mọi cám dỗ. Để có đạo đức là gốc thì phải chú trọng giáo dục, rèn luyện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Ngay từ khâu tuyển chọn, đào tạo cán bộ, kết nạp đảng viên mới đã phải làm kỹ, phân ra từng loại để giáo dục, trang bị cho họ những phẩm chất đạo đức cần thiết. Đối với một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất về đạo đức cần phải sửa chữa kịp thời. Trường hợp không thể sửa chữa được cho họ, mà họ trở thành lực lượng phản động đi ngược lại lợi ích của Đảng, của dân tộc, thì phải kiên quyết xử lý như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn và đã làm. Đó cũng là đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta cũng đã chỉ rõ các biện pháp giáo dục, răn đe, xử lý những cán bộ thoái hoá biến chất, đồng thời động viên khen thưởng các cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có phẩm chất đạo đức tốt, có hành động dũng cảm chống lại những hiện tượng làm băng hoại đạo đức xã hội. Chủ trương của Đảng đề ra là phải “thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức về chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng”; phải “cụ thể hoá và thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ chủ chốt, cán bộ, cán bộ quản lý”; phải “Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và theo điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng. Có những biện pháp cụ thể bảo vệ và khen thưởng những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng”.

Con người là chủ thể của cộng đồng xã hội, vừa là nhân lại vừa là quả của cộng đồng xã hội mà họ chung sống. Cho nên để đấu tranh với các chứng bệnh phi đạo đức và xây dựng một xã hội có đạo đức mới, phải phối hợp đồng bộ giữa cá nhân và cộng đồng trong quá trình nhận thức và thực hành đạo đức. Ở trong mỗi con người đều có sự tiềm ẩn của cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai. Bởi vậy, trong giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên cần phải xem xét cái gì họ đang làm đúng, cái gì họ làm chưa đúng để trang bị ngày càng nhiều cái thiện, cái tốt cho họ và hạn chế, đi đến quét sạch cái xấu, cái ác trong họ. Phải giáo dục, trang bị cho họ những phẩm chất đạo đức cách mạng nhất định, trên cơ sở đó họ sẽ tự giác nhận ra và phát huy được cái thiện, cái đúng và kìm chế cái sai, cái ác. Cái thiện, cái đúng phải là chuẩn mực của cộng đồng. Do vậy, song song với việc khuyến khích cá nhân và tập thể tự giác chấp hành những chuẩn mực đó, Nhà nước và cộng đồng cần có pháp luật, quy chế để bảo vệ những chuẩn mực đó. Tuy nhiên, cứ không phải có luật pháp là xã hội răm rắp tuân theo mà phải qua quá trình nhận thức thì mỗi người sẽ rút ra cái đúng, cái sai và tự giác chấp hành pháp luật. Nhà nước phải tuyên truyền, giáo dục cho mọi người hiểu được luật và tuân theo pháp luật. Trong trường hợp những cá nhân và đơn vị cố tình không tự giác chấp hành pháp luật thì Nhà nước cần có biện pháp cứng rắn để họ tuân theo.

Đạo đức là cái gốc của xã hội nói chung và của cán bộ, đảng viên nói riêng. Việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức và hệ thống pháp luật bảo vệ nó phải là việc làm thường xuyên của Nhà nước. Hơn thế việc giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên từ trong trường học đến ngoài xã hội với nội dung và phương pháp thích hợp có vị trí quan trọng trong nhận thức và hành động theo đạo đức pháp luật của mọi đối tượng trong toàn xã hội. Mỗi thành viên của xã hội, của mọi tổ chức Nhà nước, đoàn thể sống theo pháp luật và rèn luyện theo những chuẩn mực xã hội. Đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, suy thoái về đạo đức, tham nhũng, tham ô, lãng phí, buôn lậu không phải vì họ không biết những chuẩn mực đạo đức cần có của người cán bộ, đảng viên mà vì lợi ích cá nhân, họ đã bán rẻ nhân phẩm, bất chấp lợi ích của dân tộc của nhân dân thì cần phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Đó là việc làm có ý nghĩa sâu sắc và mang tính nhân đạo cao.

Ngày nay trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta lại càng cần phải thực hiện tốt hơn nữa quan điểm lấy đạo đức làm gốc trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước những đòi hỏi cấp bách của xã hội và những yêu cầu bức xúc của nhân dân, việc xây dựng, hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật là hết sức quan trọng và cần thiết như Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật chống tham nhũng... nhằm ngăn chặn, xử lý và đẩy lùi những hiện tượng tham nhũng, lãng phí, quan liêu và những biểu hiện tiêu cực khác.

Chú thích:

1.            Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr 273.

2.            Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11, tr 329.

3.            Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội ,2000, tập 5, tr280-282.

4,5,6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr 255, 258, 262 - 263, 265.

7. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 68, 80

 

Xem thêm

Thống kê truy cập
Lượt truy cập: 19,465,586

Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ Tịch

Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 , Fax: 08 043 064

Email: nhasanbacho.pct@gmail.com

Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2)

Mùa đông: Sáng: 8h - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Mùa hè: Sáng: 7h30 - 11h. Chiều: 13h30 - 16h

Liên hệ đăng ký đoàn tham quan: 08 043 226 (Phòng Tuyên truyền, Giáo dục) - 08 044 287 (Phòng Hành chính, Tổng hợp)