HÃY HỌC “LÀM NGƯỜI” THEO TẤM GƯƠNG BÁC HỒ
15 Tháng 09 Năm 2011 / 10499 lượt xem
Đỗ Đức Hinh
Nguyên PGĐ Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Từ thuở ra đi tìm đường cứu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Công việc nhỏ có thành công hay không, sự nghiệp cách mạng có thắng lợi hay không, yếu tố con người vẫn là quyết định. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, trong bài “Gửi thanh niên An Nam”, Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định với những người trẻ tuổi rằng: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”(1), hay trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” viết năm 1927 được xem là tác phẩm lý luận đầu tiên về con đường cách mạng giải phóng Việt Nam, mục đầu tiên Hồ Chí Minh đặt ra như một yêu cầu không thể thay đổi đó là “Tư cách người cách mạng”. Năm 1947, khi viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Trong cuốn “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” với bút danh Quyết Thắng viết tháng 6/1949, Hồ Chí Minh đã đi sâu hơn về con người với cái gốc là đạo đức cách mạng. Người viết: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông – Tây – Nam – Bắc; Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Thiếu một mùa thì không thành trời; Thiếu một phương thì không thành đất; Thiếu một đức thì không thành người”(2). Lưu bút tại Sổ Vàng Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương tại chiến khu Việt Bắc năm 1949, Hồ Chí Minh căn dặn: “Học để làm người, làm việc, làm cán bộ”. Ở đây Hồ Chí Minh muốn khẳng định một nguyên tắc là muốn làm việc tốt, muốn làm cán bộ tốt trước hết phải biết “làm người”. Điều này không có gì khác so với nguyên tắc chọn cán bộ phải coi trọng cả đức và tài nhưng lấy đức làm gốc. Về sau này khi miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng tiến lên CNXH, trong lần gặp mặt thầy trò trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hồ Chí Minh đã đưa ra một triết lý rất mới mà đã được khá nhiều học giả đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của mình đó chính là lý thuyết “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Cho đến lời Di chúc để lại cho đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định sự quan tâm lo lắng nhất vẫn là “vấn đề con người”.... Ở bài viết nhỏ này, chúng tôi không có tham vọng trình bày về con người ở góc độ triết học, và càng không có ý định bình luận về những tiêu chí của con người Việt Nam hiện đại với các đức tính truyền thống như yêu nước, lao động cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo và một đức tính đang được xem là “thời trang” hiện nay là “phải biết làm giàu” mà chỉ đề cập một vấn đề cụ thể ở Hồ Chí Minh mà ai cũng nhìn thấy được và ai cũng có thể học được, nếu muốn, đó là “làm người”. Đây chính là cái gốc của đạo đức mà Hồ Chí Minh là một gương mẫu lý tưởng cho các thế hệ người Việt Nam chúng ta.
“Làm người” trước hết hãy biết hi sinh cho khát vọng của đồng bào, của dân tộc và của nhân loại. Ở vào tuổi thanh niên, vì thương dân nô lệ, vì kính trọng và cảm thông với những nhà yêu nước oanh liệt như: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Thủ Khoa Huân, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Lương Văn Can…- những sỹ phu quật khởi lãnh đạo các phong trào chống Pháp nhưng đều thất bại, Nguyễn Tất Thành giải thích sự ra đi của mình sang phương Tây thật giản dị: Tôi muốn đi xem đằng sau những chữ “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” đó là cái gì? Và xem họ làm như thế nào để trở về giúp đồng bào mình (!) Và suốt những năm tháng ấy, Nguyễn Ái Quốc đã trung thành tuyệt đối với khát vọng của dân tộc mình và của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc là “giải phóng dân tộc”, là “độc lập tự do”. Rồi chính sự hi sinh ấy dần dần đã biến cái khát vọng vải đồng bào thành ham muốn của bản thân mình. Trả lời một nhà báo năm 1946, Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có ham muốn, ham muốn tột bậc là nước ta được độc lập, đồng ta được tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…”. Như nhà báo Pháp Mông- ta- rôn đã viết trên tờ “Bằng chứng Thiên Chúa giáo”: “Cụ Hồ đã dạy rằng cuộc chiến đấu vì nhân phẩm và tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác. Cụ đã mang hết sức mình để mang lại cơm ăn nước uống cho những người đói khát. Cụ đã bênh vực những người yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ. Cụ đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho khát vọng của dân tộc mình và rộng hơn là cả nhân loại”. Và có lẽ vì như vậy mà nhà báo Úc Bớc- sét đã viết “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh”. “Làm người” theo Bác Hồ chính là hướng tới chân- thiện- mỹ nhưng không hẳn phải cao xa mà quan trọng là ngay trong nếp nghĩ, cách sống, sự ứng xử với người, với việc hàng ngày.
“Làm người” còn phải biết đồng cảm chia sẻ với những khó khăn vất vả của đồng bào, đồng chí, luôn luôn gương mẫu và biết nêu gương tốt cho mọi người. Với hàng nghìn câu chuyện đơn lẻ, nếu chúng ta biết hệ thống và xâu chuỗi lại thì sẽ thấy sáng ngời lên bài học “làm người” của Hồ Chí Minh. Chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trở về Hà Nội, Chính phủ bố trí cho Hồ Chí Minh sống và làm việc tại ngôi nhà đẹp, sang trọng vốn là Phủ Toàn quyền Đông Dương cũ. Người từ chối với lý do: hãy giành ngôi nhà ấy làm trụ sở làm việc của Nhà nước và tiếp khách quốc tế, bớt đi một khoản đóng góp của nhân dân lúc này là rất cần thiết. Rồi Người tự chọn một ngôi nhà nhỏ vốn của người thợ điện phục vụ Phủ Toàn quyền cũ để ở. Khi những người phục vụ xin ý kiến đi mua sắm đồ dùng cho Người, Bác ân cần nói: Lúc này cái cần phải xây dựng là đất nước, người cần được quan tâm là nhân dân, tôi ở thế này là được rồi, các chú xem trong khu vực còn thứ gì dùng được thì ta dùng, không nên mua sắm gì cả. Bốn năm sau, khi xin ý kiến về bản thiết kế nhà sàn, mặc dù đã ý thức được tinh thần tiết kiệm của Hồ Chủ tịch, các kiến trúc sư cũng đã hết sức cố gắng để đưa ra một phương án có thể nói là đơn giản nhất, tối thiểu nhất. Nhưng khi trình bản thiết kế, Bác cũng chỉ chấp nhận ½, nghĩa là chỉ đồng ý làm 2 phòng, mỗi phòng chỉ hơn 10m2. Bác căn dặn chỉ dùng gỗ nhóm 4, còn gỗ tốt để xây dựng trường học và bệnh viện phục vụ nhân dân. Khi Văn phòng đề nghị Người cho phép thay chiếc xe Pôpêđa đã sử dụng từ năm 1956, Bác dứt khoát từ chối vì xe còn chạy tốt không cần phải thay và phân tích rằng: Bác thay xe được thì các đồng chí khác cũng thay xe mới đước chứ, nếu tất cả cùng thay xe đẹp thì tiền lấy từ đâu? Các chú nên nhớ rằng: Tiền ấy là của nhân dân cả đấy! Rồi những việc nhỏ như bữa ăn hàng ngày cũng vậy, đơn giản là vừa đủ với lời dặn người đầu bếp được xem như là một nguyên tắc: Chú giúp Bác nấu ăn cố gắng tiết kiệm, chỉ sử dụng trong phạm vi tiền lương của Bác thôi, không được lãng phí vì hạt gạo chúng ta ăn, cọng rau chúng ta ăn đều là mồ hôi công sức của đồng bào! Và không chỉ một lần hay một việc mà khi nào cũng vậy. Năm 1945, kêu gọi đồng bào hưởng ứng mùa đông binh sĩ, Người xin đóng góp một tháng lương. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ quyết liệt, Người rút toàn bộ số tiền tiết kiệm của mình trong mấy chục năm viết báo được gần 20 lượng vàng để ủng hộ bộ đội uống nước. Gặp năm mất mùa, viện trợ khó khăn, cả nước phải ăn độn, Bác đề nghị và kiên quyết thực hiện ăn độn 30% theo quy định và không đồng ý thay đổi với bất kỳ lý do gì. Khi tuổi cao, sức khỏe có phần giảm sút, Trung ương cử thêm một bác sỹ sang chăm lo sức khỏe cho Người, Bác chủ động gặp, cảm ơn và nói: Chú có biết hiện nay ở nước ta bao nhiêu người dân mới có một bác sỹ không? Một mình Bác mà có tới hai bác sỹ liệu có cần thiết không? Chú nên trở về đơn vị để phục vụ bộ đội và phục vụ đồng bào sẽ có lợi hơn nhiều. Chính sự đồng cảm, chia sẻ của Bác như giáo sư Trần Văn Giàu đã phát biểu tại cuộc Hội thảo quốc tế nhân 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng: “Đó là sự thức tỉnh lương tri, xây dựng khi nó thiếu, tái tạo khi nó mất. Cụ thức tỉnh kẻ mê, ân cần đỡ dậy người trượt ngã, biến vạn người dân bình thường thành những anh hùng hữu danh và vô danh. Ở cụ chuyện nhỏ nhưng đức lớn thật hài hòa”.
“Làm người” còn phải biết thực sự yêu thương con người, gắn bó thân thiết với nhân dân, quan tâm đồng cảm với từng số phận của con người trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Có một con số ít được mọi người quan tâm, đó là trong 15 năm từ 1955 đến 1969, Hồ Chí Minh đã có hơn 700 lần đi cơ sở, Người đến các địa phương, các công trường, nhà máy, xí nghiệp, các đơn vị bộ đội, công an, trường học và các cơ quan…. Đấy là một con số biết nói, nó gắn liền với hình ảnh một vị Chủ tịch tuy tuổi đã cao nhưng vẫn biết sắn quần lội ruộng cùng nông dân, đến bên bờ ruộng thăm hỏi nhân dân thu hoạch, trao đổi về mùa vụ với người ngư dân ngay tại bãi biển, kiểm tra tình hình sản xuất trong xưởng máy, động viên bộ đội tại thao trường, đến thăm học sinh, sinh viên tại giảng đường… lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của từng người dân bình thường nhất, động viên kịp thời từng gương tốt, phê bình góp ý cho cán bộ, lãnh đạo ngay tại địa bàn… đấy không phải chỉ là tác phong sâu sát và còn là thái độ “yêu dân, kính dân” “gắn bó máu thịt với nhân dân”. Thật đáng suy nghĩ khi Hồ Chí Minh phê bình những người giúp việc khi chuẩn bị chưa đầy đủ và thiếu chu đáo để Người tiếp các cháu nhỏ là con em các cán bộ phục vụ trong Phủ Chủ tịch. Với lời nhắc nhở con người: Các chú nhớ rằng, ở nhà các cháu là con các chú, nhưng vào đây các cháu là khách của Bác, các chú phải thật chu đáo! Khi vị đại sứ của ta ở CHDC Đức vì thương Bác nóng, tìm cách mua gửi về một cái điều hòa, những mong để Người đỡ nóng vào mùa hè, khi Văn phòng xin phép để lắp máy Bác nói: giúp Bác, điện cảm ơn đồng chí Đại sứ. Bác đề nghị mang chiếc máy này đến lắp cho Trại điều dưỡng thương binh nặng ở Thuận Thành – Bác nóng, Bác còn có tay để quạt, các chú ấy nhiều chú đã không còn tay chân nữa, mùa hè không còn tay để quạt, vất vả lắm! Hàng năm Xuân về, Tết đến, chúng ta ai ai cũng háo hức chờ nghe Thơ chúc Tết của Bác Hồ, nhưng với Bác không chỉ có làm thơ Tết mà còn lo có Tết cho mọi nhà, vì vậy mà trước giao thừa năm nào Bác cũng có những chuyến thăm tất niên, trong những đối tượng được Người đến bao giờ cũng có những gia đình nghèo. Bác muốn đến với những người dân nghèo cần có sự quan tâm đúng lúc cũng như Bác muốn nhìn thấu đáo tới một sự thật để khẳng định trách nhiệm của Đảng cầm quyền: không chỉ chăm lo đến đường lối chính sách mà Đảng còn phải chăm lo đến tương cà, mắm muối cho dân. Hễ dân đói là Đảng có lỗi, dân rét là Đảng có lỗi, dân còn bệnh tật là Đảng có lỗi… Cũng có lẽ vì nhân dân còn nghèo, nhiều gia đình chưa có Tết, nên sinh thời Bác chỉ tổ chức ăn Tết với anh chị em Văn phòng Phủ Chủ tịch một bữa ăn vào chiều 30. Còn tất cả những ngày sau đó Bác giữ mức sinh hoạt bình thường. Tết Kỷ Dậu (1969), biết Bác đã yếu, vừa muốn để Bác vui, vừa giảm bớt chương trình đi chúc Tết thăm đồng bào của Bác, đồng chí Vũ Kỳ (Thư ký riêng của Bác) thống nhất với Tỉnh ủy Hà Tây mời Bác về Hà Tây ăn Tết. Khi báo cáo lên Bác – Người cười và nói: Bác đi thăm Tết và chúc Tết đồng bào, chứ Bác có đi ăn Tết đâu mà các chú mời. Thôi đừng thay đổi chương trình của Bác! Và nói với Hà Tây đừng cỗ bàn lãng phí tiền của nhân dân, Bác mang theo cơm của Bác rồi. Lòng nhân ái Hồ Chí Minh sâu thẳm như biển cả, nhưng đồng thời lại thiết thực như hạt gạo, hạt muối, nên ai cũng có thể thấy, có thể học và có thể làm theo.
“Làm người” còn phải biết rèn luyện để “khổ mấy cũng chịu được, nhưng sướng mấy cũng phải chịu được”. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng kể lại: Khi chuẩn bị viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Bác nhấn mạnh rằng: Cán bộ đảng viên là cái gương để quần chúng soi vào, cho nên dân ta mới có câu nói “đảng viên đi trước, làng nước theo sau!”. Muốn làm được điều đó thì cán bộ đảng viên phải tu dưỡng rèn luyện để khổ mấy cũng chịu được, nhưng sướng mấy cũng phải chịu được, có như thế mới giữ vững được đạo đức cách mạng. Người còn nói tiếp: Bác rất lo khi đã có chính quyền rồi, có điều kiện kinh tế khác thời kháng chiến rồi cán bộ dễ bị sa ngã, dễ quan liêu, tham nhũng, hư hỏng, đó là những cán bộ đảng viên không chịu được “sướng” đấy. Vì vậy, kinh tế càng phát triển, đời sống càng được nâng cao thì càng phải chống chủ nghĩa cá nhân, càng phải rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng. Càng phải tôn trọng và gắn bó máu thịt với nhân dân, phải giữ gìn và xứng đáng là những tấm gương để quần chúng nhân dân soi vào. Với Bác, càng ngẫm càng thấy thật là sáng suốt vô cùng. Vì sao khi đất nước đã hòa bình sống giữa Thủ đô và là người đứng đầu Đảng và Nhà nước mà trong tủ quần áo chỉ mấy bộ ka-ki có chiếc đã sờn cổ, sờn tay dùng để hội họp và tiếp khách, vài bộ quần áo gụ để đi thăm đồng bào? Vì sao vị Chủ tịch không chịu diện những đôi giầy da bóng lộn mà quen với đôi dép cao su vẹt gót? Vì sao Người không dùng ô, lọng mà đi đâu cũng với chiếc mũ “cát” quen thuôc? Không thích kỷ dài, không ưa khẩu hiệu, đến đâu cũng quan tâm đến chỗ ăn, chỗ ở, nơi vệ sinh, thăm hỏi để thấm tận tâm chứ không xã giao sáo rỗng? Vì sao trọn đời cống hiến hi sinh mà Người vẫn một mực chối những tấm huân chương rất xứng đáng của Quốc hội và của các quốc gia khác trao tặng? Vì Tổ quốc chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân còn đói khổ, đất nước ta còn nghèo lắm thì không ai được tự cho mình cái đặc quyền đặc lợi, không ai được tự cho mình cái quyền sống trên sự đau khổ của đồng bào mình.
Bài học “làm người” là một nội dung trong quan điểm lớn của Bác Hồ đó là: Người cán bộ cách mạng cần có cả “đức” cả “tài” trong đó “đức” luôn luôn là gốc. Chính vì thế mà, năm 1960 khi đoàn 72 sinh viên khóa đầu tiên tốt nghiệp đại học lên báo cáo kết quả học tập với Quốc hội. Sau khi nghe báo cáo, động viên khen ngợi, thay mặt Nhà nước Bác Hồ căn dặn rằng: Các cô, các chú đã có bằng đại học rồi, bây giờ hãy về bệnh viện, trường học, nhà máy, công trường để học lấy cái “bằng làm người” nữa. Có như vậy mới phục vụ nhân dân và đất nước được lâu dài. Lời căn dặn thật chí lý và sâu sắc ấy có thể ngẫm ra rằng: muốn “chính quả” thì phải “ngộ” được một điều là trước hết hãy học để “làm người” dù “thời” nào hay “thế” nào cũng vậy./
(1) HCM. Nxb CTQG, HN, 1995, TT.T2, Trg 133
(2) HCM, Sđd, TT.T5, Trg 631